#ana


THẾ GIỚI DẠY HỌC CỦA MẸ VỚI NA, HARRY VÀ CHỊ SÓC
#ana Mẹ Nguyên với Na, Harry và chị Sóc học ngoại ngữ
https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

HOÀNG GIA AN TIẾNG ANH

#ana 117 Hoàng Gia An tiếng Anh 117 https://youtu.be/yQwaD7-vpGg
#ana 116 Hoàng Gia An tiếng Anh 116 https://youtu.be/qZGF_JWk-VM
#ana 115 Hoàng Gia An tiếng Anh 115 https://youtu.be/CWMo-YfFDH8
#ana 114 Hoàng Gia An tiếng Anh 114 https://youtu.be/hU7xtGTyVJQ
#ana 113 Hoàng Gia An tiếng Anh 113 https://youtu.be/gwfgou9pYCc
#ana 112 Hoàng Gia An tiếng Anh 112 https://youtu.be/gp0j0X3lIZI
#ana 111 Hoàng Gia An tiếng Anh 111 https://youtu.be/pDLOXKqCj1o
#ana 110 Hoàng Gia An tiếng Anh 110 https://youtu.be/AsjGYXMyAEQ
#ana 109 Hoàng Gia An tiếng Anh 109 https://youtu.be/o6rixJSqpmM
#ana 108 Hoàng Gia An tiếng Anh 108 https://youtu.be/AdCyTD2L46s
#ana 107 Hoàng Gia An tiếng Anh 107 https://youtu.be/R8OXHctE5Cc
#ana 106 Hoàng Gia An tiếng Anh 106 https://youtu.be/Fpxul3GxBvs
#ana 105 Hoàng Gia An tiếng Anh 105 https://youtu.be/Ey-2_cgYORI
#ana 104 Hoàng Gia An tiếng Anh 104 https://youtu.be/krcnsWfJoC0
#ana 103 Hoàng Gia An tiếng Anh 103 https://youtu.be/lz-YeHTXLUw
#ana 102 Hoàng Gia An tiếng Anh 102 https://youtu.be/evJ4bArQpbU
#ana 101 Hoàng Gia An tiếng Anh 101 https://youtu.be/s22IbV6A7BE
#ana 100 Hoàng Gia An tiếng Anh 100 https://youtu.be/gvd0CyHHFiY
#ana 99 Hoàng Gia An tiếng Anh 99 https://youtu.be/Dgv9zFQnnN0
#ana 98 Hoàng Gia An tiếng Anh 98 https://youtu.be/KQ79oUqEW_8
#ana 97a Hoàng Gia An tiếng Anh học nhóm https://youtu.be/DatqUASAeZA
#ana 97 Hoàng Gia An tiếng Anh 97 https://youtu.be/6wftdq9g5Eo
#ana 96 Hoàng Gia An tiếng Anh 96 https://youtu.be/gomklMrEh8Q
#ana 95 Hoàng Gia An tiếng Anh 95 https://youtu.be/6wpV4qkuPUY
#ana 94 Hoàng Gia An tiếng Anh 94 https://youtu.be/DMnpIL5dElU
#ana 93 Hoàng Gia An tiếng Anh 93 https://youtu.be/zF1TbLyq9Ls
#ana 92 Hoàng Gia An tiếng Anh 92 https://youtu.be/XdWPJo-ZoRs
#ana 91 Hoàng Gia An tiếng Anh 91 https://youtu.be/83Yf8qO1M4s

#ana 90 Hoàng Gia An tiếng Anh 90 https://youtu.be/AaYsXOy0IPY
#ana 89 Hoàng Gia An tiếng Anh 89 https://youtu.be/qepX50rTnfA
#ana 88 Hoàng Gia An tiếng Anh 88 https://youtu.be/Ka1XcSOUmYQ
#ana 87 Hoàng Gia An tiếng Anh 87 https://youtu.be/5o4TF1z62ss
#ana 86 Hoàng Gia An tiếng Anh 86 du học 1 https://youtu.be/h4QGdIG4Ze4
#ana 86 Hoàng Gia An tiếng Anh 86 https://youtu.be/LPCgvjAzOWA
#ana 85 Hoàng Gia An tiếng Anh 85 https://youtu.be/jYaPBYGTwls
#ana 84 Hoàng Gia An tiếng Anh 84 https://youtu.be/rCKfIGf2if4
#ana 83 Hoàng Gia An tiếng Anh 83 https://youtu.be/YwefHnfarm8
#ana 82 Hoàng Gia An tiếng Anh 82 https://youtu.be/6XnrqkbcL_o

#ana 81 Hoàng Gia An tiếng Anh 81 https://youtu.be/XycgPqaBzyU

#ana 80 Hoàng Gia An tiếng Anh 80 https://youtu.be/2D6eCFk8SHE
#ana 79 Hoàng Gia An tiếng Anh 79 https://youtu.be/w74HUzGbprA
#ana 78 Hoàng Gia An tiếng Anh 78 https://youtu.be/TrNv6clTa9U
#ana 77 Hoàng Gia An tiếng Anh 77 https://youtu.be/JKm9Egtt4qM
#ana 76 Hoàng Gia An tiếng Anh 76 https://youtu.be/oNYklP4h5W4
#ana 75 Hoàng Gia An tiếng Anh 75 https://youtu.be/JHV01egXuFE
#ana 74 Hoàng Gia An tiếng Anh 74 https://youtu.be/pBrB7j8VYAg
#ana 73 Hoàng Gia An tiếng Anh 73 https://youtu.be/mW_RI5ZrPhQ
#ana 72 Hoàng Gia An tiếng Anh 72 https://youtu.be/eTV7F52t5lU
#ana 71 Hoàng Gia An tiếng Anh 71 https://youtu.be/2qmsnl_Opjg

#ana 70 Hoàng Gia An tiếng Anh 70 https://youtu.be/AdKozHw3qHs
#ana 69 Hoàng Gia An tiếng Anh 69 https://youtu.be/AiwLUX1HLrw
#ana 68 Hoàng Gia An tiếng Anh 68 https://youtu.be/_jb8MLGg-M4
#ana 67 Hoàng Gia An tiếng Anh 67 https://youtu.be/XY8peF42iOg
#ana 66 Hoàng Gia An tiếng Anh 66 https://youtu.be/76qcgOUf2dQ
#ana 65 Hoàng Gia An tiếng Anh 65 https://youtu.be/HhUqPSDwXYg
#ana 64 Hoàng Gia An tiếng Anh 64 https://youtu.be/wXAe7IrJKp0
#ana 63 Hoàng Gia An tiếng Anh 63 https://youtu.be/kUpEeEmDiJ0
#ana 62 Hoàng Gia An tiếng Anh 62 https://youtu.be/NhRCP291Mhs
#ana 61 Hoàng Gia An tiếng Anh 61 https://youtu.be/_SplvzyMBWo

#ana 60 Hoàng Gia An tiếng Anh 60 https://youtu.be/uzdnnXaw_Uc
#ana 59 Hoàng Gia An tiếng Anh 59
https://youtu.be/7X0nUv_oNNM
#ana 58 Hoàng Gia An tiếng Anh 58 https://youtu.be/j0nyBwFICcE
#ana 57 Hoàng Gia An tiếng Anh 57 https://youtu.be/2TZGZ0PX16o
#ana 56 Hoàng Gia An tiếng Anh 56 https://youtu.be/q-LayZZreRE
#ana 55 Hoàng Gia An tiếng Anh 55 https://youtu.be/mO3fuLUlERY
#ana 54 Hoàng Gia An tiếng Anh 54 https://youtu.be/VHrCZu4qLI4
#ana 53 Hoàng Gia An tiếng Anh 53 https://youtu.be/CH2bo7ZC-fQ
#ana 52 Hoàng Gia An tiếng Anh 52 https://youtu.be/pampfMzGMe0
#ana 51 Hoàng Gia An tiếng Anh 51 https://youtu.be/y4bpXStzF4k

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG

https://youtu.be/_RA_P3g6icY Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung tọa đàm ngôn ngữ quốc tế ‘ ULIS UNC 2024 Hà Nội Việt Nam #htn #dayvahoctiengviet #vietnamhoctiengviet #viettrunganhdoichieu #htnhttps://hoangkimvn.wordpress.com/category/htn https://hoangkimvn.wordpress.com.category/ana

Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung Tọa đàm Quốc tế MỚI

Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 32 https://youtu.be/CAi3gFFcVJ4
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 31 https://youtu.be/7Xyudh95DvE
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 30 https://youtu.be/sfKHO5MMmhE
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 29 https://youtu.be/gtUUCKVv_gg
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 28 https://youtu.be/LiRMuV32zj8
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 27 https://youtu.be/hoi7rrxNrKo
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 26 https://youtu.be/2O7vJ9e8eGc
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 25 https://youtu.be/4La4CksXmbA
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 24 https://youtu.be/6iwAtA6B7a4
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 23 https://youtu.be/oLJZHtuXqAI
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 22 https://youtu.be/QtRsXsWxg8o
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 21 https://youtu.be/QtRsXsWxg8o
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung 20 https://youtu.be/744VwGs_kkE

Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung, luyện nghe nói Hán ngữ

#htn https://youtu.be/XFr2-7IxsOA?si=pwR39IQ9uiwfH69e
#htnhttps://youtu.be/PAA1B3NRlD8 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/pUsMC2cl7wU HTN hanyuxuexi

#htn https://youtu.be/NHxNTKjymuk HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/NHxNTKjymuk HTN hanyuxuexi P2
#htn https://youtu.be/XGXP6z-1awE HTN hanyuxuexi P1
#htnhttps://youtu.be/z2g9xVP4nj03 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/hrE7LVGnzyQ HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/8AMmb6QeHeM 023 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/lPoz7bsgUfA HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/bpYCNYzZvC8 HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/eLbo0EAuoUY HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/mWJepJA2JUk HTN hanyuxuexi
#htn https://youtu.be/kgljBI3pS4Y HTN hanyuxuexi

HOÀNG GIA MINH TIẾNG ANH

#hgm 21 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 21 https://youtu.be/7pyXSGZ6RxM
#hgm 20 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 20 https://youtu.be/Wd-cNTOjzeM
#hgm 19 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 19 https://youtu.be/DiHJtGh0tn0
#hgm 16 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 16 https://youtu.be/CWZGnSkJ5CA
#hgm 11 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 11 https://youtu.be/RAH0JE7Bt5w
#hgm 10 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 10 https://youtu.be/orQVmRQhIng
#hgm 8 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 8 https://youtu.be/ilLZ_GOppsk
#hgm 7 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 7 https://youtu.be/AIN_sUjCOf0
#hgm 6 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 6 https://youtu.be/pvlIOd-IA9Y
#hgm 5 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 5 https://youtu.be/UnLz0366uRo
#hgm 4 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 4 https://youtu.be/DIPU5wZV98U
#hgm 3 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 3 https://youtu.be/ZZhiBJGY08o
#hgm 2 Hoàng Gia Minh tiếng Anh 2 https://youtu.be/maZpITPXBQE

HOÀNG GIA BÌNH TIẾNG ANH

#hgb 38 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 38 https://youtu.be/IPTdQiXYupY
#hgb 36 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 36 https://youtu.be/smJzNmyVvqA
#hgb 30 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 30 https://youtu.be/PRf-cc6ogK4
#hgb 29 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 29 https://youtu.be/Tmh9eIfpn-Q
#hgb 27 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 27 https://youtu.be/rjoaohDMkIY
#hgb 25 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 25 https://youtu.be/iJ_fjn6mftU
#hgb 16 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 16 https://youtu.be/rFQs-H_PL1c
#hgb7 Hoàng Gia Bình tiếng Anh 7 https://youtu.be/Lo5SjVI3u6A

Luyện nói 70 câu tiếng Anh https://youtu.be/q83IcmZWLvI?si=y4MLsIVC6LD4MUeN

TIẾNG TRUNG BÌNH MINH AN

#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/cJln6_vQ6qQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/GitihRIko2g
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/taJKR2-OiWU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/xM3Vf5NvbwU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/ZYKN0QCpU2s
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/QS1KJ-THo-w
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE

Learn Vietnamese Chinese English 4 https://youtu.be/iK03ZagwTOI 4 3 2023
Learn Vietnamese Chinese English 3 https://youtu.be/i3NOu2rwR-4 1 3 2024
Learn Vietnamese Chinese English 2 https://youtu.be/1m77g9LxNb4
Learn Vietnamese Chinese English 1 https://youtu.be/WzsCz3whXiA

HOÀNG GIA BÌNH MINH AN
Hoàng Tố Nguyên tiếng Trung; Hoàng Gia Bình Minh An
https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana
#ana #htn #vietnamxahoihoc #htn365

HOÀNG GIA AN TIẾNG TRUNG
#hga 1 Hoàng Gia An tiếng Trung 1 https://youtu.be/oET6Se69JTE

Ông bà cha mẹ #annhiên vui
Con cháu #thungdung sống
Cậu với cháu an bình miền cổ tích
Thanh nhàn dạy học và vui chơi

https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

Ông Bà Và Con Cháu

Ông bà dạy cháu học
Lời hát ru chuyện đời
Có vàng vàng chẳng hay phô
Có con có cháu trầm trồ dễ nghe


Bà dạy cháu ăn nói
Ăn sạch thì sống lâu
Nói lành thì phước lớn

Lời nói không mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau



Ông và cháu trốn tìm
Học chuyện đời tìm kiếm:
Trăm năm ai chớ quên ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim


Cháu và ông làm bài
Tô màu và đố chữ:
Vàng trắng xanh tím đỏ
An nhàn vô sự là Tiên


Bài đồng dao huyền thoại
Ngày mới Ngọc cho đời
Ông bà và con cháu
Một gia đình yêu thương


xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cau-troi-noi-me-cha-xua Thông tin tích hợp tại Tình thức cùng tháng năm #htn #ana #Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc, #đẹpvàhay, #cnm365#cltvn;

Thang nam nho lai va suy ngam 7

A Na bà chúa Ngọc
A Na Bình Minh An

Hoàng Gia Bình sinh ngày 29 tháng 3 năm 2011
Hoàng Gia Minh sinh ngày 22 tháng 2 năm 2014
Hoàng Gia An sinh ngày 23 tháng 2 năm 2017

Chị Sóc cùng Harry, Na
Giữa trời xanh tuyết trắng
Có hoa đào hồng thắm
Núi Phú trời bình yên

Chi Sóc là cô Tiên
Giữa một vùng cổ tích
A Na tìm được Ngọc
Harry vui thích cười.

Tuổi Ngọc sáng đất trời
Vô tư đầy sung sướng
Chị Hai mừng khôn lớn
Em nhớ hoài tuổi hoa

Chị với em ngắm hoa
Lung linh vườn cổ tích
Sóc, anh Harry mai học
Na và Ngoại ngoan nghe.


https://youtu.be/QS1KJ-THo-w Tiếng Trung Bình Minh An 19 1 2024

Cậu với cháu an nhiên miền cổ tích
Vui chọn cho mình dạy học bình yên

https://youtu.be/QS1KJ-THo-w Tiếng Trung Bình Minh An 19 1 2024 https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An 21 1 2024 https://youtu.be/xM3Vf5NvbwU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An 20 1 2024 https://youtu.be/ZYKN0QCpU2s
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An 19 1 2024 https://youtu.be/QS1KJ-THo-w
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/EqMdZXLqIeQ
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/_yX9s2GpeLE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/P3ql_Fhyhq4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/JC8aXMNzDHU
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/akxXQAXcceE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/nn9b0tZzdjA
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/y4t_BLrv5XM
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/jEkG-784N6E
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/B61xopPlNiE
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/hsxhmeWf3Fw
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/Ec-k00A98T4
#htn365 Tiếng Trung Bình Minh An https://youtu.be/dQeXSZ-rVUE

HOÀNG TỐ NGUYÊN TIẾNG TRUNG
黄素源 (越南) Hoàng Tố Nguyên Việt Nam
Dạy và học tiếng Trung trực tuyến
#htn #vietnamxahoihoc #cnm365 #dayvahoc #vietnamhoc, #cltvn Việt Nam xã hội học (越南社会学; Vietnamese Sociology) Ngữ Văn Việt Trung Anh đối chiếu Xã hội Việt Nam ngày nay; Nông nghiệp sinh thái Việt; Ngành nghề ở Việt Nam; Vùng sinh thái Việt Nam; Du lịch sinh thái Việt; Nước Việt Nam ngày nay; Việt Nam con đường xanh https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/hoang-to-nguyen-tieng-trung & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/hoang-to-nguyen-tieng-trung/

XÃ HỘI VIỆT NAM 越南社会
Hoàng Tố Nguyên
#htn #vietnamxahoihoc #vietnamhoc #cnm365 https://hoangkimvn.wordpress.com

#cattien Vườn Quốc Gia Cát Tiên

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
#htn, #hoangkimlong, #BanMai #vietnamxahoihoc, #htn365,#ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn #Vietcassava

Nguyen Long

THƠ VỀ MẸ
Hoàng Long

Thuở cỏn con, con nằm bên mẹ
Đầu rúc vào lòng, con ấm lắm mẹ ơi
Con thương mẹ đêm ngày tần tảo
Thức đêm dài mẹ may áo cho con

Gió đồng nội trưa hè nắng nóng
Mẹ ngồi khom nhổ cỏ một mình
Mưa đêm lạnh mẹ ngồi lo lắng
Lo cho con yên giấc cơn đau

Con vui sướng khi được ôm lưng mẹ
Mỗi lần mẹ về với chị em con
Đem cho con muôn điều hạnh phúc
Mẹ vẫn luôn nghĩ về chúng con

Thuở thiếu thời con không nghe lời mẹ
Để mỗi lần mẹ đánh con đau
Tuổi nhỏ bồng bột chưa biết nghĩ
Giờ lớn khôn con cố học hành

Con sẽ bay cao bay xa mãi
Tìm đến ánh sáng của tương lai
Tìm ra người bạn con mong ước
Giữ mãi hình mẹ ở trong con

Đảm việc nhà lo toan việc nước
Xây gia đình giữ hạnh phúc cho con
Con muốn tìm, muốn gặp người bạn đó
Người bạn như mẹ, mẹ của con

Xa cha mẹ, chúng con lên thành phố
Nhớ tuổi thơ mẹ nhắc con học hành
Mẹ làm lụng chúng con mong giúp mẹ
Nhưng mẹ chỉ cười “học đi con”

Mẹ đã cho con nhiều hạnh phúc
Dạy cho chúng con biết điều hay
Mẹ cũng chăm con từng giấc ngủ
Mỗi lần con về bên mẹ, mẹ ơi!

Con muốn ở bên mẹ như thuở bé
Cảm nhận tình thương mẹ dành cho con
Thoải mái từng giờ trong hạnh phúc
Bên mẹ, gia đình, giấc ngủ ngon.

THƠ CHO CON
Hoàng Kim
Thương yêu tặng con Hoang Long
nhân ngày sinh

Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!

Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ

Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!

Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc

Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo
Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc

Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vả
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên
Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm

Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi

BAN MAI CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim

An vui cụ Trạng Trình
Thung dung đời quên tuổi
Chín điều lành hạnh phúc
Ngày mới bình minh an

Thăm Quê Ngày Chuyển Năm
Hoàng Kim, Hoàng Long & Hoàng Minh Hải

Ngày cuối năm về quê
Dâng hương kính tổ tiên

Bái tạ hồn núi sông
Con cháu mừng ấm cội.


Phước lành đón năm mới
Khoan dung chuyện trái lòng
Đèn Trời soi nghiệp thiện
Tỉnh thức đức hiếu trung.

Trọn đời theo chân Bác
Đường xuân không nản lòng
Giấc mơ lành hạnh phúc
Thành tâm với chính mình.


Nhớ mãi lời căn dặn
Xuân mới ghi trong lòng

Kính dâng Người thấu hiểu
Tâm tình Con ước mong…

QUẢNG BÌNH ĐẤT MẸ ƠN NGƯỜI

Quảng Bình đất Mẹ ơn Người
Tổ tiên cát bụi nhiều đời thành quê
Đinh ninh như một lời thề
Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

Lòng son trung chính biết ơn
Quê hương chung đúc khí thiêng Quảng Bình
Về quê kính nhớ Tổ tiên
Mừng vui giữa chốn bạn hiền người thân

Đất trời ngày mới thanh tân
Thung dung thăm hỏi ân cần níu chân.
Đường xuân như một dòng sông
Việt Nam thống nhất thác ghềnh đến nơi.

Hồn chính khí bốc lên ánh sáng
Sáng choang ngọc đá giữa hoang tàn’.
Tâm nhân văn lắng đọng tinh hoa
Hoa Đất Hoa Người trong cõi Bụt

ĐÁ ĐỨNG CHỐN SÔNG THIÊNG
Hoàng Kim

Con về Đá Đứng Rào Nan
Cồn Dưa Minh Lệ của làng quê hương
Linh Giang chảy giữa vô thường
Đôi bờ thăm thẳm nối đường tử sinh.

Quê hương sông núi hữu tình
Chính trung phúc hậu đinh ninh lời nguyền
Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân

Ân tình nắm đất quê hương
Công Cha nghĩa Mẹ lời thương dặn dò
Đinh ninh như một lời thề
Trọn đời trung hiếu để về dâng hương

Chúc Mừng Năm Mới Hạnh Phúc
Cả Nhà Ấm Áp Niềm Vui😍😍😍
Xuân Sớm Đón Ngày Đoàn Tụ
Hương Quê Thân Thiết Tuyệt Vời!

https://cnm365.wordpress.com/2024/01/01/cnm365-cltvn-1-thang-1/

Thành Tâm Với Chính Mình

Mười bốn năm xuống núi
Nhớ ngày lên non thiêng
Thương lời Thầy tỉnh thức
#Thungdung một giấc thiền
.

Ai dấn thân khổ lụy
Ta ước tròn nhân duyên
Công quả lành phước thiện
Đức lớn nuôi chí bền
.

Long Hồ thư sinh lão
Phượng Các học sĩ thần
Hoàng Phủ Chân Quân Truyện

Thành Ý Bền Nghiệp Duyên

Non Xanh Chùa Trấn Quốc
Hồ Rào Đá Thần Đinh
Tề Pháp Kim Long Đỉnh
Bát Trận Đồ Trúc Lâm

Gió Lộng Xoay Thái Cực
Thánh Linh Chuông Trống Trời
Tam Tuyến Bắc Đẩu Trận
Thiên An Dấu Huyền Môn


Sắn Khoai Ngon Cõi Bụt
Mình Về Đây Dâng Hương
Lều Tranh Bên Chùa Núi
#Annhiên Vui Đời Thường

Thành Tâm Với Chính Mình

Dạo Chơi Chùa Thần Đinh
Hoàng Long và Hoàng Kim

xem tiếp
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nui-than-dinh-quang-binh thông tin tích hợp tại TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM #htn, #hoangkimlong, #banmai #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc, #vietnamhoc, #cnm365#cltvn #Vietcassava, https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thanh-tam-voi-chinh-minh & Trích dẫn và trích đoạn video/phim 3Kingdom Thành tâm với chính mình

Thông suối đạo lý LỜI ANH DẶN KHIÊM NHU CẦN KIỆM Hoàng Ngọc Dộ Khát Vọng
Phim Việt Nam ngày nay tầm lịch sử văn hóa, cần DẠY VÀ HỌC kỹ phim 3Kingdom

Khiêm tốn và lịch sự, đó mới là đạo kết giao

Kiến An năm thứ 13, Lưu Chương, Ích Châu mục, phái Trương Tùng tới gặp Tào Tháo, bàn về chuyện liên minh. Không ngờ bị từ chối phũ phàng, Trương Tùng lập tức chuyển hướng, tới Kinh Châu tìm Lưu Bị.

Khi Trương Tùng tới Kinh Châu, Lưu Bị nồng nhiệt tiếp đãi, đích thân ra nghênh đón. Thấy Lưu Bị vô cùng khiêm tốn, Trương Tùng rất nhanh buông bỏ phòng bị, bàn về chuyện liên minh.

Trong cả quá trình, Lưu Bị luôn lắng nghe rất chăm chú, còn ghi chép cẩn thận lại từng lời Trương Tùng nói. Trương Tùng cảm thán: “Tào Tháo ngạo mạn, con người Lưu Hoàng Thúc khiêm tốn, là một vị minh chủ hiếm có.”

Bậc thầy thu phục lòng người - Lưu Bị: Đàn ông có đáng để kết giao hay không, vừa nhìn là biết!  - Ảnh 2.
Lưu Bị trên màn ảnh nhỏ

Lãnh đạo khiêm tốn, quý như ngọc. Họ buông xuống được thân phận của mình, kìm nén sự kiêu ngạo, không xem người khác thấp kém hơn mình, càng không tỏ ra mình hơn người.

Vương Dương Minh từng nói: người khiêm tốn luôn khiến người khác cảm thấy như làn nước mùa xuân, khiến người ta cảm thấy mình được tôn trọng.

Có người nhận xét về Lưu Bị rằng ông là “người có tài, lấy được lòng dân, không bao giờ để người khác thấy mình kém cỏi”. Thuật xưng vương của ông không phải là tấn công và cướp bóc lãnh thổ, cũng không phải là âm mưu, mà là thu phục lòng dân và tập hợp sức mạnh của nhân dân.

Những người có nhân cách đẹp, có tầm nhìn xa là những người đáng để kết giao. 

https://hoangkimvn.wordpress.com/category/ana

dav

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Pho tượng Ngọc Quan Âm


PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM

Bạch Ngọc Hoàng Kim
Pho tượng Ngọc Quan Âm là báu vật tâm hương.

PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM

Mẹ công đức trên đài sen tĩnh lặng
Con ơn Người trong cõi phúc #annhiên


Đêm Vu Lan lắng bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay Chị gối đầu khi Mẹ mất
Thương lời Cha căn dặn học làm Người


Pho tượng Ngọc Quan Âm
Bài đồng dao huyền thoại
Sáng mãi Ngọc lưu ly
Đường xuân đời quên tuổi


Chuyện ngậm ngãi tìm trầm
Ngày mới Ngọc cho đời
Cuối dòng sông là biển
Giấc mơ lành yêu thương

Bạch Ngọc Hoàng Kim

Nhớ Mẹ mùa Đản sinh, ngắm pho tượng Ngọc Quan Âm, tôi tâm đắc với bài thơ của chính mình với các đường dẫn truyện trên đây, và thấm thía lời trao đổi của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc

1. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Biết níu giữ là khôn ngoan. Nhưng khi đã già, ta mới nhận ra rằng: Biết buông bỏ mới là trí tuệ!

2. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Người giàu có là người lấy về rất nhiều. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người giàu có là người cho đi rất lớn!

3. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Mạnh mẽ là vượt qua người khác. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Mạnh mẽ là vượt qua chính mình!

4. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Kẻ nói nhiều là kẻ thông minh. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Người biết lắng nghe mới là người thông thái!

5. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Nếu ta thắng phải hơn người thua. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Đến nơi là mọi người cùng thắng!

6. Khi còn trẻ, ta thường muốn sống thật lâu. Nhưng khi đã già, ta muốn sống sao cho có ý nghĩa với cuộc đời!

7. Khi còn trẻ, ta thường muốn người khác chấp nhận mình. Nhưng khi đã già, ta nhận ra rằng: Chỉ cần mình chấp nhận mình là đủ!

8. Khi còn trẻ, ta mong muốn thay đổi cả thế giới. Nhưng khi đã già, ta mong muốn thay đổi chỉ bản thân mình mà thôi!

9. Khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Khi trưởng thành, ta sẽ không còn bị tổn thương. Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Trưởng thành là biết điều chỉnh tiếng khóc về chế độ im lặng!

10. Và khi còn trẻ, ta thường nghĩ rằng: Có tiền sẽ có tình yêu, có vật chất, người ta sẽ yêu quý… Nhưng khi đã già, ta mới biết rằng: Lương thiện bạn sẽ có mọi trái tim

Vợ chồng tôi dặn con: Nhà mình có năm gia bảo quý: An Viên Ngọc Phương Nam, An Viên Ngọc Quan Âm, Pho tượng Ngọc Quan Âm, Nhà 161A Võ Văn Tần, Bàn ăn học và giường ngủ. Đó là năm chuyện đời người. Pho tượng Ngọc Quan Âm ở nơi cao nhất, tôn kính nhất, tĩnh lặng nhất nhà mình; https://hoangkimlong.wordpress.com/category/pho-tuong-ngoc-quan-am/

Nguyen Long

KIM THỦY THƠ CHO CON

Thương yêu tặng hai con
HoàngTố Nguyên, Hoàng Long

Con!
Thân thương một tiếng gọi
Hạnh phúc bật nên lời
Lòng Cha bồi hồi
Sung sướng gọi:
Con!

Cha đi công tác xa
Mong đợi Con, từng ngày chờ thư Mẹ
Thư đến!
Con ra đời!
Cha run lên vì mừng
Thao thức suốt đêm
Không ngủ

Bạn bè vây quanh Cha
Trân trọng niềm vui thiêng liêng
Nâng cốc chúc Cha
Hạnh phúc!

Tiếng Con ngọt ngào môi Cha
Dào dạt lòng Cha vỗ mãi
Có Con
Nối cuộc đời Cha
Gấp đôi
Có Con
Đan giữa cuộc đời
Hạnh phúc

Con là sợi dây máu thịt
Yêu thương gắn Mẹ và Cha
Có Con
Cha thấy cuộc đời ý nghĩa hơn
Cuộc sống – Tình yêu – Sự nghiệp
Hai Con là hai con mắt
Cửa sổ tâm hồn Cha
Dẫu đời Cha nhiều chông gai
Trái chín cuộc đời vẫn ngọt
Con là giấc mơ trong trẻo

Là ban mai tươi vui
Là viên ngọc trao đời
Là hương hoa hạnh phúc

Ước vọng cuộc đời Cha
Có Con đi nối con đường sự nghiệp
Con đứng trên vai Cha
Vươn tới những chân trời mơ ước

Hai Con
Hai viên ngọc
Chị con và Con
Mẹ con dịu hiền hơn
Mẹ con đảm đang hơn
Cha bớt vụng về mỗi việc làm nho nhỏ
Con trở thành ngọn lửa
Sưởi ấm lòng Mẹ Cha
Khi mỗi ngày khó khăn
Trong trẻo tiếng Con
Mẹ Cha hết mệt
Con là niềm vui lớn nhất
“Con hơn Cha nhà có phúc”
Cha mong dồn cho Con.

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên Con là Hoàng Long?
Con ơi!
Tên Con là khúc hát yêu thương
Của lòng Cha Mẹ
Cha Mẹ thương nhau
Vì qúy trọng những điều ân nghĩa
Sự nghiệp và tình yêu
Những ngày gian khổ
Cùng nghiên cứu củ sắn, củ khoai
Con là giống khoai Hoàng Long
Tỏa rộng nhiều vùng đất nước
Dẫu không là trái thơm qủa ngọt
Nhưng là niềm vui người nghèo
Để Cha nhớ về quê hương
Khoai sắn bốn mùa vất vả
Để Cha nhớ những ngày gian khổ
Năm năm
Cơm ngày một bữa
Khoai sắn không phụ lòng
Để Cha nhớ về
Lon khoai nghĩa tình
Nắm khoai bè bạn
Gom góp giúp Cha ăn học
Khi vào đời
Cha gặp Mẹ con
Cho nên:
Cha muốn Con
Trước khi làm những điều lớn lao
Hãy biết làm củ khoai, củ sắn
Hãy hướng tới những người lao động
Nhớ quê nghèo cắt rốn, chôn rau

Lớn lên
Con sẽ hỏi cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Con là đậu rồng
Là công trình thứ hai Mẹ Cha nghiên cứu
Mẹ con chọn hạt
Cha gieo nên con
Vất vả gian nan
Hứa hẹn một mùa gặt hái
Con là tháng ngày mong đợi
Là niềm vui đóng góp cho đời
Từ hạt đậu củ khoai
Cha Mẹ trao Con sự nghiệp
Cha nhớ câu đối trăm năm
Về một gia đình hạnh phúc
“Sáng khoai, trưa khoai, tối khoai
ngày khoai ba bữa
Cha đỗ, mẹ đỗ, con đỗ
đều đỗ cả nhà”
Chị con và Con
Là mong ước
Của Mẹ và Cha

Lớn lên
Con sẽ hỏi Cha
Sao Cha đặt tên con Hoàng Long?
Long là rồng
Nghĩa mẹ tạo nền
Công cha xây móng
Trước mắt con là sông dài, biển rộng
Ước mong con bay lên
Con hãy đi đến cùng
Mục đích của con
Làm được những điều cao cả
Hãy cố gắng không ngừng
Kiên gan
Bền chí
Ước mơ và hiện thực
Hôm nay và mai sau
Nghị lực là thước đo cuộc đời
Hai chữ đầu tiên Con học làm người
Phải học hai điều NHÂN NGHĨA

Cha mong Con lớn lên
Ít nếm trãi khó khăn, vất vả
Nhưng đừng bao giờ quên
Những ngày đói khổ
Thời thơ ấu của Cha
Mồng Ba tháng Giêng ngày mất của Bà
Hai mươi tháng Mười ngày ông Mỹ giết
Ngày mà cửa nhà tan nát
Đói nghèo Bác dắt dìu Cha
Tuổi thơ thì bắt ốc, mò cua
Lớn một chút trồng khoai, dạy học
Qua danh lợi hiểu vinh, hiểu nhục
Trãi đói nghèo biết nghĩa, biết ân
Phan Thiết là nơi Mẹ đã sinh Con
Ông Bà ngoại nuôi cho Con khôn lớn
Tuổi thơ của Con lớn trong yên ấm
Tao nôi êm ả, thanh bình
Ru cho Con “uống nước nhớ nguồn”
Khi con lớn đừng quên điều HIẾU THẢO

Cha say viết về Con
Kể về Con
Thơ cho Con
Cô bác vây quanh Cha
Gật gù
Thông cảm

Thơ chắp mối
Từng vần,
Từng mảng
Câu thơ chưa chỉnh lời
Nhưng tứ thơ
Dồn dập
Bối hồi
Hạnh phúc lớn
Trong lòng Cha
Ngân mãi

(*) Hoàng Long sinh đêm Noel

Tho cho con 4

CON LÀ NGUỒN HẠNH PHÚC 
Hoàng Kim

Tặng các con Hoàng Bá Lộc, Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long
và các cháu Hoàng Gia Bình, Hoàng Gia Minh, Hoàng Gia An

Mẹ đi về quê ngoại để sinh con
Trời tháng Sáu xanh một màu thương nhớ
Ba mong con mấy đêm liền không ngủ
Ngày hai mươi con khóc chào đời.

Con mang về Ba Mẹ một nguồn vui
Hạnh phúc trăm năm, niềm ao ước lớn
Mong mỏi chứa chan, tình yêu trọn vẹn
Bao yêu thương âu yếm rộn trong lòng.

Ba vui mừng chọn đặt tên con
Cặp tên đẹp giữa muôn ngàn từ ngữ
Cái tên vì con mà thành rực rỡ
Con hãy làm tên đẹp hóa bài ca.

Hai chị em con là Nguyên, Long của Mẹ và Cha
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long niềm hạnh phúc
Chữ Mẹ và con gái Thủy Nguyên thành chữ kép
Tên Cha với con trai Kim Long đạt món ăn ngon


Nguyen Loc 9
Nguyen Long 1

(*) Hoàng Tố Nguyên sinh 20 6 1983

BÌNH MINH AN NGÀY MỚI

Thanh nhàn đời vui khỏe
Tỉnh thức lộc Trời ban
Nắng ban mai đầy cửa
Ngày mới bình minh an

ĐỖ PHỦ THƯƠNG ĐỌC LẠI

Dụng kiếm dưới trăng thanh
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần soi kiếm ý

‘Lều tranh nát gió thu’
‘Bát trận đồ’ ‘Xuân vọng’
Đỗ Phủ thương đọc lại
Sao Kim soi tỏ lòng.


Văn chương lưu muôn đời
Bậc thầy gương vạn thuở
Thi thánh và thi sử
Đỗ Phủ Đặng Dung ơi


Hoàng Kim

Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/ và Đỗ Phủ thơ mưa lành https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-tho-mua-lanh/

Đỗ Phủ là Thi thánh Thi sử Trung Quốc do đức độ cao thượng, tài thơ văn tuyệt vời. Đỗ Phủ cùng Lý Bạch là hai nhà thơ vĩ đại nhất thời nhà Đường. Thơ Đỗ Phủ nổi tiếng vì phong cách đơn giản và thanh lịch đặc sắc bậc nhất trong thơ cổ điển Trung Quốc. Tầm vóc Đỗ Phủ sánh với Victor Hugo và Shakespeare. Thơ Đỗ Phủ ảnh hưởng sâu sắc tới văn hóa cổ điển Trung Quốc và văn học hiện đại Nhật Bản. Cụ Nguyễn Du đã từng thán phục Đỗ Phủ “Thiên cổ văn chương thiên cổ sư Bình sinh bội phục vị thường ly” (Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt). Cụ Hồ Chí Minh trong Di chúc đã có trích thơ Đỗ Phủ. Cuộc đời Đỗ Phủ là tấm gương phản chiếu đất nước Trung Hoa thời loạn khi đời sống nhân dân tột cùng điêu đứng vì thường xuyên biến động. Đỗ Phủ bộ sưu tập thơ được bảo tồn khoảng 1500 bài thơ đều là tuyệt phẩm. Thi Viện hiện có Đỗ Phủ trực tuyến 1450 bài. Dưới đây là Đỗ Phủ những bài thơ bi tráng phổ biến nhiều người đọc.

ĐỌC ĐỖ PHỦ NHỚ ĐẶNG DUNG

Dụng kiếm dưới trăng thanh
Hùng tâm thiên cổ lụy
Bậc danh sĩ tinh hoa
Bút thần soi kiếm ý


Hoàng Kim

Ngày 8 tháng 12 năm 757, Đỗ Phủ về kinh thành Trường An làm quan trong triều vua Đường Huyền Tông sau loạn An Sử. Bài thơ nổi tiếng của Đỗ Phủ ‘Xem người đẹp múa kiếm’ gợi cho người Việt Nam nhớ bài thơ bi tráng ‘Thuật hoài’ đêm thanh mài kiếm của Đặng Dung. Bài này đã được giới thiệu tại “Đọc Đỗ Phủ nhớ Đặng Dung” .

Xem người đẹp múa kiếm
Đỗ Phủ
(Bản dịch của Nguyễn Minh)

Người đẹp họ Công Tôn thủa trước
Múa kiếm lên cả nước rung rinh
Vững lòng như núi cũng kinh
Đất trời cũng phải vị tình ngả nghiêng.

Sáng như Nghệ bắn văng vầng nhật
Uyển chuyển như tiên đáp lưng rồng
Tới như sấm sét bão bùng
Ngưng như biển lặng sông trong hiền hòa.

Tài hoa mãi cũng ra mai một
Học trò cưng sau rốt truyền nghề
Nữ nhi Lâm Dĩnh quán quê
Tới thành Bạch Đế diễn phô kiếm tài.

Câu hỏi đáp cùng người trao đổi
Nhìn người nay thương tới người xưa
Tám ngàn cung nữ của vua
Công Tôn múa kiếm mới vừa long nhan.

Năm mươi năm như bàn tay lật
Gió bụi nay phủ khắp cung rồi
Lê Viên phường hát tàn phai
Dư âm nữ nhạc còn nơi chiều vàng.

Gò Kim Túc cây hàng cung kính
Cỏ xác xơ thành đá Cù Đường
Tiệc hoa đàn sáo chợt ngưng
Sau vui buồn đến, mặt trăng ló rồi.

Thân già về chẳng có nơi
Chân chai núi vắng rã rời bước đi.

Nguyên tác Đỗ Phủ

七言古詩

杜甫

觀公孫大娘弟子舞劍器行并序

大歷二年十月十九日夔府別駕元持宅見臨潁李十二 娘舞劍器,壯其蔚跂。問其所師,曰︰余公孫大娘 弟子也。開元三載,余尚童稚,記於郾城觀公孫氏 舞劍器渾脫。瀏灕頓挫,獨出冠時。自高頭宜春梨 園二伎坊內人,洎外供奉,曉是舞者,聖文神武皇 帝初,公孫一人而已。玉貌錦衣,況余白首!今茲 弟子亦匪盛顏。既辨其由來,知波瀾莫二。撫事慷 慨,聊為劍器行。昔者吳人張旭善草書書帖,數嘗 於鄴縣見公孫大娘舞西河劍器,自此草書長進,豪 蕩感激。即公孫可知矣!

昔有佳人公孫氏, 一舞劍器動四方。
觀者如山色沮喪, 天地為之久低昂。
霍如羿射九日落, 矯如群帝驂龍翔,
來如雷霆收震怒, 罷如江海凝清光。
絳唇珠袖兩寂寞, 晚有弟子傳芬芳。
臨潁美人在白帝, 妙舞此曲神揚揚。
與余問答既有以, 感時撫事增惋傷。
先帝侍女八千人, 公孫劍器初第一。
五十年間似反掌, 風塵澒洞昏王室。
梨園子弟散如煙, 女樂餘姿映寒日。
金粟堆前木已拱, 瞿塘石城草蕭瑟。
玳筵急管曲復終, 樂極哀來月東出。
老夫不知其所往? 足繭荒山轉愁疾。

Quan Công Tôn đại nương đệ tử vũ kiếm khí hành
Tích hữu giai nhân Công Tôn thị Nhất vũ kiếm khí động tứ phương.
Quan giả như sơn sắc trở táng,
Thiên địa vi chi cửu đê ngang.
Quắc như Nghệ xạ cửu nhật lạc,
Kiểu như quần đế tham long tường.
Lai như lôi đình thu chấn nộ,
Bãi như giang hải ngưng thanh quang.
Giáng thần châu tự lưỡng tịch mịch,
Vãn hữu đệ tử truyền phân phương.
Lâm Dĩnh mĩ nhân tại Bạch Đế,
Diệu vũ thử khúc thần dương dương.
Dữ dư vấn đáp ký hữu dĩ,
Cảm thì phủ sự tằng uyển thương.
Tiên đế thị nữ bát thiên nhân,
Công Tôn kiếm khí sơ đệ nhất.
Ngũ thật niên gian tự phản chưởng,
Phong trần hồng động hôn vương thất.
Lê viên đệ tử tán như yên,
Nữ nhạc dư tư ánh hàn nhật.
Kim túc đôi tiền mộc dĩ củng,
Cù Đường thạch thành thảo tiêu sắt.
Đại diên cấp quản khúc phục chung,
Lạc cực ai lai nguyệt đông xuất.
Lão phu bất tri kỳ sở vãng,

Túc kiển hoang sơn chuyển sầu tật.

Dịch nghĩa

Bài hành xem học trò của đại nương Công Tôn múa điệu kiếm khí

Xưa có người đẹp họ Công Tôn,
Mỗi lần múa điệu kiếm khí, bốn phương rung động.
Người xem vững như núi cũng khiếp đảm.
Trời đất theo nhịp múa mà lên cao xuống thấp.
Sáng rực như Hậu Nghệ bắn rơi chín mặt trời,
Vững vàng như các chúa tiên cỡi rồng lượn.
Đến khi sấm sét thu hết cơn giận dữ,
Dừng như sông bể đọng ánh sáng trong veo.
Làm môi thắm, tay áo ngọc nay đã vắng tênh,
Về già có cô học trò để truyền nghề.
ấy là người đẹp xứ Lâm Dĩnh ở thành Bạch Đế.
Múa khúc tuyệt diệu này, thần thái hiên ngang.
Cùng ta trò chuyện trong chốc lát,
Cảm thời thế nhiều ngang trái mà xót thương !
Thị nữ của tiên đế có tám nghìn người,
Kiếm khí của Công Tôn đứng hàng đầu.
Khoảng năm chục năm trôi qua tựa như trở bàn tay,
Gió bụi tơi bời tối tăm cả cung vua.
Đệ tử Lê viên tan tác như khói,
Phong tư đội nữ nhạc chỉ còn ánh nắng lạnh lẽo.
Trước gò Kim Túc, côi cối chầu hầu,
Nơi thành đá Cù Đường, cỏ xác xơ buồn bã.
Trên tiệc, khúc sáo dồn dập đã dứt
Vui xong sinh buồn, trăng mọc trời đông.
Già này chẳng biết sẽ đi về đâu,
Chân chai lê trong núi hoang theo nỗi sầu.

Thuật hoài
Đặng Dung
Bản dịch của Phan Kế Bính

Việc đời bối rối tuổi già vay,
Trời đất vô cùng một cuộc say.
Bần tiện gặp thời lên cũng dễ,
Anh hùng lỡ bước ngẫm càng cay.
Vai khiêng trái đất mong phò chúa,
Giáp gột sông trời khó vạch mây.
Thù trả chưa xong đầu đã bạc,
Gươm mài bóng nguyệt biết bao rày.

Nguyên tác Thuật hoài Đặng Dung

感懷

世事悠悠奈老何
無窮天地入酣歌
時來屠釣成功易
運去英 雄飲恨多
致主有懷扶地軸
洗兵無路挽天河
國讎未報頭先白
幾度龍泉戴月磨

Phiên âm Hán-Việt

Cảm hoài

Thế sự du du [2] nại lão hà?
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca[3].
Thời lai đồ điếu [4] thành công dị.
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chủ [5] hữu hoài phù địa trục[6],
Tẩy binh [7] vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo [8] đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền [9] đới nguyệt ma
.

Chép theo Ngữ văn 10 (nâng cao), sách đã dẫn. Có bản chép khác: Thế lộ (câu 1), Nhập thù ca (câu 2), Sự khứ (câu 4), Trí chúa hữu tâm (câu 5), vị phục (câu 7).

Dịch nghĩa:

Việc đời dằng dặc mà ta đã già, biết làm thế nào?
Trời đất mênh mông đắm trong cuộc rượu hát ca.
Khi gặp thời, người làm nghề hàng thịt, kẻ câu cá cũng dễ thành công,
Lúc lỡ vận, bậc anh hùng đành phải nuốt hận nhiều.
Giúp chúa, những mong xoay trục đất lại,
Rửa vũ khí không có lối kéo tuột sông Ngân xuống.
Thù nước chưa trả được mà mái tóc đã bạc sớm,
Bao phen mang gươm báu mài dưới bóng trăng.

THIẾU LĂNG THƠ “BÁT TRẬN ĐỒ”

Đỗ Phủ thăm Bát trận đồ do Khổng Minh thời Tam quốc dựng thành tại huyện Phụng Tiết tỉnh Tứ Xuyên. Tướng Ngô là Lục Tốn bị quân Thục vây hăm tại đây nhưng nhờ được nhạc phụ của Khổng Minh là Hoàng Thừa Ngạn chỉ đường nên ra thoát. Khổng Minh chưa ra khỏi nhà tranh đă biết thiên hạ thế chia làm ba Thục Ngô Ngụy (tam phân quốc) Thụ liên Ngô kháng Ngụy là đại kế xoay chuyển tình thế. Lưu Bị đánh Đông Ngô để trả thù cho Quan Vân Trường, bị thua to về tay Lục Tốn. Khổng Mình với “bát trận đồ” thể hiện minh triết và tầm nhìn sâu sắc của Khổng Minh. Đỗ Phủ thơ kiệt tác ‘Bát trận đồ” chỉ vỏn vẹn 23 chữ đã khái quát Tam Quốc và bài học bi tráng lịch sử.

Bát trận đồ
Đỗ Phủ
Bản dịch của Phan Kế Bính

Công trùm thế tam phân,
Tiếng thơm đồ bát trận.
Nước chảy đá trơ trơ,
Đánh Ngô còn để giận.

八陣圖

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳。


Bát trận đồ

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.


Dịch nghĩa

Công lớn trùm khắp, nước chia làm ba,
Nổi danh trận đồ Bát quái.
Nước sông cứ chảy đá không lay chuyển,
Để lại hận đã thất kế thôn tính Ngô.

ĐỖ PHỦ THI THÁNH THI SỬ

Năm Chí Đức thứ 2 ( 757) đời Đường, Đỗ Phủ bị kẹt lại trong thành Tràng An đã lọt vào tay loạn tướng An Lộc Sơn. Núi sông vẫn như cũ nhưng nước mất nhà tan. Xuân về nhưng thành Tràng An hoang tàn sau nguy biến. Đỗ Phủ xuân vọng lời thơ cảm khái và bi thương. Khoảng 1500 bài thơ của ông lời vào châu ngọc như sử thi khắc vào đá. Văn hóa Trung Quốc cổ điển, văn học Nhật Bản rất trọng bút pháp sử thi tuyệt diệu này

Xuân vọng
Đỗ Phủ
Bản dịch của Trần Trọng Kim

Nước phá tan, núi sông còn đó
Đầy thành xuân cây cỏ rậm sâu
Cảm thời hoa rỏ dòng châu
Biệt ly tủi giận, chim đau nỗi lòng
Ba tháng khói lửa ròng không ngớt
Bức thư nhà, giá đắt bạc muôn
Gãi đầu tóc bạc ngắn ngun
Dường như hết thảy, e khôn búi tròn.

Nguồn: Trần Trọng Kim, Đường thi, NXB Văn hoá thông tin, 1995

春望

國破山河在,
城春草木深。
感時花濺淚,
恨別鳥驚心。
烽火連三月,
家書抵萬金。
白頭搔更短,
渾欲不勝簪。


Xuân vọng

Quốc phá sơn hà tại,
Thành xuân thảo mộc thâm.
Cảm thì hoa tiễn lệ,
Hận biệt điểu kinh tâm.
Phong hoả liên tam nguyệt,
Gia thư để vạn kim.
Bạch đầu tao cánh đoản,
Hồn dục bất thăng trâm.


Dịch nghĩa

Núi sông còn đó mà nước mất rồi,
Thành ngày xuân hoang tàn, cỏ cây rậm rạp.
Cảm thương thời thế mà hoa ướt lệ,
như con chim bị tên, kinh sợ sự chia lìa.
Khói lửa báo giặc giã cháy suốt ba tháng liền.
Thư nhà lúc này đáng vạn đồng.
Gãi mái đầu bạc thấy càng thêm thưa, ngắn,
Muốn cài trâm mà chẳng được.


(Năm 757)

Mao ốc vị thu phong sở phá ca là kiệt tác Thi Thánh của Đỗ Phủ. Hiện nay, bảo tàng Du Fu Caotang, nằm bên cạnh Công viên Huanhuaxi ở quận Qingyang của Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên có lưu giữ những di vật của ông. Bảo tàng Du Fu Caotang có diện tích 24 ha, được công bố thành lập vào ngày 4 tháng 3 năm 1961 là đợt đầu tiên của các địa điểm bảo vệ di tích văn hóa trọng điểm quốc gia Trung Quốc. Tái công bố là địa điểm bảo vệ di tích văn hóa đầu tiên ở tỉnh Tứ Xuyên vào ngày 7 tháng 7 năm 1980

Lều tranh bị phá do gió thu
Đỗ Phủ
Bản dịch của Nguyễn Minh

Gió mùa thu hú cơn cuồng nộ
Cuốn phăng ngay mái cỏ nhà tôi
Qua sông cỏ rải tơi bời
Trên cao vướng mắc khơi khơi trên cành
Dưới thấp thì chìm trong ao nhỏ
Trẻ xóm nam khi dễ ông già
Nỡ làm giặc cướp trước nhà
Ngang nhiên ôm cỏ mang qua nhà mình
Kêu khô cổ không giành được chúng
Trở về nhà gậy chống thở than
Lát sau gió mạnh cũng tan
Trời chiều đen tối, không gian mịt mù
Chăn vải cũ lạnh như tấm sắt
Con cưng nằm đạp rách tan hoang
Đầu giường nước dột mênh mang
Hạt mưa không ngớt rơi tràn thâu đêm
Từ khi loạn ít đêm ngủ được
Nay mưa rơi ướt át chịu sao
Uớc chi có một toà nào
Rộng ngàn căn hộ, bọc bao muôn người
Mưa gió lớn khôn lay chuyển nổi
Vững như non mãi mãi an toàn
Bao giờ toà đó thành hoàn
Thì nhà mái lật, cũng cam lòng này.


茅屋為秋風所破歌

八月秋高風怒號,
卷我屋上三重茅。
茅飛渡江灑江郊,
高者掛罥長林梢,
下者飄轉沉塘坳。
南村群童欺我老無力,
忍能對面為盜賊。
公然抱茅入竹去,
唇焦口燥呼不得,
歸來倚杖自歎息。
俄頃風定雲墨色,
秋天漠漠向昏黑。
布衾多年冷似鐵,
驕兒惡臥踏裡裂。
床頭屋漏無干處,
雨腳如麻未斷絕。
自經喪亂少睡眠,
長夜沾濕何由徹!
安得廣廈千萬間,
大庇天下寒士俱歡顏,
風雨不動安如山!
嗚呼!何時眼前突兀見此屋,
吾廬獨破受凍死亦足!


Mao ốc vị thu phong sở phá ca

Bát nguyệt thu cao phong nộ hào,
Quyển ngã ốc thượng tam trùng mao.
Mao phi độ giang sái giang giao.
Cao giả quái quyến trường lâm sao,
Hạ giả phiêu chuyển trầm đường ao.
Nam thôn quần đồng khi ngã lão vô lực,
Nhẫn năng đối diện vi đạo tặc.
Công nhiên bão mao nhập trúc khứ,
Thần tiều khẩu táo hô bất đắc.
Qui lai ỷ trượng tự thán tức.
Nga khoảnh phong định vân mặc sắc,
Thu thiên mạc mạc hướng hôn hắc.
Bố khâm đa niên lãnh tự thiết.
Kiều nhi ác ngoạ đạp lý liệt.
Sàng đầu ốc lậu vô can xứ,
Vũ cước như ma vị đoạn tuyệt.
Tự kinh táng loạn thiểu thuỵ miên,
Trường dạ chiêm thấp hà do triệt.
An đắc quảng hạ thiên vạn gian,
Ðại tí thiên hạ hàn sĩ câu hoan nhan,
Phong vũ bất động an như san.
Ô hô, hà thời nhãn tiền đột ngột kiến thử ốc,
Ngô lư độc phá thụ đống tử diệc túc.


Dịch nghĩa

Tháng tám, trời thu cao, gió giận dữ gào thét,
Cuốn đi ba lớp cỏ tranh trên mái nhà ta.
Cỏ tranh bay qua sông, rải xuống miền đất bên sông.
Cao thì vắt vẻo treo trên ngọn cây rừng;
Thấp thì tả tơi rơi chìm xuống ao nước.
Lũ trẻ xóm nam khinh ta già yếu,
Nhẫn tâm làm giặc cướp ngay trước mặt ta.
Chúng công khai ôm cỏ tranh đi vào trong xóm trúc;
Ta khô môi rát miệng, kêu thét mà không được.
Trở về, chống gậy, thở than.
Một lát sau, gió yên mây đen như mực.
Trời thu bát ngát đen tối lúc chiều tà.
Chiếc chăn vải dùng nhiều năm, lạnh như sắt,
Bị đứa con thơ khó ngủ đạp rách toang.
Ở đầu giường mái nhà dột, không chổ nào khô;
Vết mưa nhiều như gai vẫn còn chưa hết.
Từ khi gặp cơn loạn lạc, mình ít ngủ,
Suốt đêm dài ướt đẫm, biết làm sao hết được!
Mong sao có được ngàn vạn gian nhà lớn,
Để giúp cho các hàn sĩ trong thiên hạ đều được vui vẻ,
Không bị kinh động vì mưa gió, yên ổn như núi non!
Hỡi ôi, biết bao giờ được trông thấy nhà này đứng cao sững trước mắt,
Dù cho riêng nhà ta bị phá vỡ, mình có chịu rét đến chết, cũng thoả lòng!


(Năm 761)

Đỗ Phủ Thi Thánh Thi Sử thời nhà Đường Trung Hoa với bài thơ Xem người đẹp múa kiếm ca ngợi tài nghệ múa kiếm tuyệt luân của mỹ nhân Công Tôn Đại Nương. Đọc thơ Đỗ Phủ liên tưởng tới bài thơ ‘Thuật hoài’ của tráng sĩ Đặng Dung, danh tướng thời Hậu Trần của Việt Nam đêm thanh mài kiếm, ngẫm kỹ thấy có sự tương đồng. Đọc các bài “Bát trận đồ” “Xuân vọng” “Túp lều tranh nát dưới gió thu” càng thêm cảm khái.

Ôi, danh sĩ tinh hoa đức độ tài năng thời nào cũng có, gặp thời nhiễu loạn, đành vàng lầm trong cát, nhưng nhân cách vẫn lồng lộng như gương trời buổi sớm.

Nguồn: Đỗ Phủ thương đọc lại https://hoangkimlong.wordpress.com/category/do-phu-thuong-doc-lai/; đọc thêm: Lời Thầy dặn Thung dung; Đối thoại với Thiền sư


IM LẶNG MÀ BÃO GIÔNG
Hoàng Kim

Im lặng mà bão giông, khoảnh khắc mà trường cửu, tưởng như vô định nhưng đang thấu mọi cõiVõ Nguyên Giáp, Văn Cao  ảnh Nguyễn Đình Toán thật đẹp và cảm khái. Hôm nay, nhân tưởng nhớ ngày sinh Văn Cao, nhạc sĩ nổi tiếng, tác giả quốc ca Việt Nam, tôi lại ngắm nhìn bức ảnh của Văn Cao với đại tướng Võ Nguyên Giáp , lắng nghe lại “Mùa xuân đầu tiên” Tác giả: Văn Cao, ca sĩ: Thanh Thúy, nhớ lời bình thật hay của nhà nhiếp ảnh danh tiếng Nguyễn Đình Toán.

Đọc lại và suy ngẫm  Vị tướng của lòng dân  Hoàng Kim đăng ngày 5 tháng 10 năm 2013 ngay sau ngày Người mất http://danhnhanviet.blogspot.com/2013/10/vo-nguyen-giap-vi-tuong-cua-long-dan.html.  mà nhớ thấm thía lời bình của Giáo sư Nguyễn Huệ Chi trong bài viết “Tướng Giáp, người anh hùng của độc lập Việt Nam, đã qua đời” : “Giải tỏa tấn bi kịch vô hình khủng khiếp đè lên con người đó, bỏ qua mọi thứ “công tội” do chính cái chủ nghĩa mà con người đó theo đuổi, trả lại cho con người đó cái giá trị đích thực của một vị tướng đánh trận tài năng, phải nói chính là vòng tay ân nghĩa của nhân dân“.“Về nghỉ là thượng sách. Thử điểm lại lịch sử xưa nay có tướng nào giành được chiến công lẫm liệt mà không đi kèm thân bại danh liệt hay không?”.

Hoàng Kim viết bài Vị tướng của lòng dân là tích hợp mười ghi chép nhỏ về Người trên DANH NHÂN VIỆT 1) Nhân cách lớn của đại tướng Võ Nguyên Giáp; 2) Tướng Giáp trí tuệ bậc Thầy; 3) Võ Nguyên Giáp sao sáng trời Nam; 4) Võ Nguyên Giáp vị nhân tướng khuyến học ; 5) Võ Nguyên Giáp thiên tài quân sự; 6) Đại tướng Võ Nguyên Giáp chân dung một huyền thoại; 7) Võ Nguyên Giáp đọc lại và suy ngẫm
8) Đọc lại và suy ngẫm Tết Mậu Thân 1968
; 9) Võ Nguyên Giáp vị tướng của lòng dân
10) Võ Nguyên Giáp tự trong sâu thẳm.


Hoa Lúa giữa đồng xuân là sự lựa chọn của người lính trở về sau chiến tranh

HOA LÚA GIỮA ĐỒNG XUÂN

Bao năm Trường Viện là nhà
Sắn khoai ngô lúa đều là thịt xương
Một đời người một rừng cây
Thầy ươm giống tốt để mai thành rừng.

Con theo Người nguyện làm Hoa Lúa
Bưng bát cơm đầy quý giọt mồ hôi
Trọn đời vì Dân mến thương hạt gạo
Hoa quê hương hạt ngọc trắng ngần.


Con thăm Thầy lên non thiêng Yên Tử
Về đất lành Chùa Ráng giữa đồng xuân

“Mưa thuận gió hòa chăm bón đúng
Nhân tươi quả tốt được thu nhiều”
(*)

Lẫn với cỏ không tranh đua hương vị
Không màng ngôi ngự trị các loài hoa
Hoa Lúa đượm hồn quê dung dị
Quên sắc hương để lộng lẫy Hoa Người ! ” (**)

Con nguyện ước nối đời theo hạt gạo
Chén cơm ngon thơm bếp lửa gia đình
Thầy Trò cùng chung tay làm việc thiện
Sống trọn tình với giấc mơ xanh.


Hoàng Kim
(*) Lão Nông Tăng trong ngôi cổ tự
(**) trích dẫn thơ Dương Phượng Toại

CNM365 TÌNH YÊU CUỘC SỐNG
Hoàng Kim 

Dỗ Phủ thơ mưa lành và Toni Morrison khuyên tôi viết cnm365 Tình yêu cuộc sống. Mưa lành và yêu thương là trường năng lượng tích cực cho suối nguồn hạnh phúc

Toni sinh ở Lorain, Ohio, (ảnh Rona Proudfoot). Toni Morrison, gọi tắt là Toni, tên khai sinh Chloe Anthony Wofford, sinh ngày 18 tháng 2 năm 1931, là nhà văn nữ Mỹ gốc Phi, người thành phố New York, giáo sư Mỹ, phụ nữ đoạt giải Nobel Văn học năm 1993, giải Pulitzer năm 1988, nổi tiếng với các tác phẩm Tình yêu, Người yêu dấu, Bài ca Solomon, Mắt xanh.  Bà rất được kính trọng trong các phong trào quyền bình đẳng phụ nữ và thường phát biểu trong các đại hội của phụ nữ da đen. Tác phẩm của bà được dịch ra nhiều thứ tiếng và là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Morrison gọi Bill Clinton là “Tổng thống da đen đầu tiên”, vì bà cho rằng “Clinton phô bày hầu hết những nét đặc trưng của dân da đen: Một cậu bé gốc Arkansas, sinh ra trong một gia đình nghèo không cha, thuộc tầng lớp lao động, chơi kèn saxophone, và mê thức ăn McDonald”.

Toni Morrison là nhà văn tình yêu như tác phẩm mẫu mực mới đây của bà, một trong những biểu tượng văn hóa khát khao vươn tới. Đó là sự tôn vinh những giá trị đích thực của nhân loại: yêu thương con người, tôn trọng tự do, quan tâm bình đẳng giới, quan tâm người nghèo và những người kém may mắn.

Lorain Ohio

Toni sinh ở Lorain, Ohio, là một thành phố thuộc quận Lorain, tiểu bang Ohio, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 64.097 người. Toni là con thứ hai trong một gia đình công nhân da đen có bốn người con. Toni lớn lên cùng cuộc đại suy thoái những năm 1930 ở nước Mỹ. Bà sớm  bộc lộ niềm yêu thích văn học. Thuở nhỏ, bà học tiếng Latin, đọc các tác phẩm của văn học Nga, AnhPháp.

 AustenTolstoy  là bậc thầy thần tượng của Toni.  Austen (hình UTA) sinh ngày 16 tháng 12 năm 1775 mất ngày 18 tháng 7 năm 1817, là nữ văn sĩ Anh, tác giả của nhiều tác phẩm nổi tiếng. Văn phong tuyệt kỹ trong nghệ thuật dẫn chuyện và xây dựng tình huống cùng với tầm cao văn hóa  xã hội đã đem tên tuổi Austen vào trong số những nhà văn nhiều ảnh hưởng và được trọng vọng nhất trên văn đàn nước Anh. Auten chưa bao giờ kết hôn nhưng có câu chuyện tình yêu lãng mạn với Tom Lefroy và thể hiện sâu sắc trong đời văn của mình. Austen đã ảnh hưởng sâu đậm đến phong cách văn chương của Toni.

Tolstoy là đại văn hào Nga với các kiệt tác Chiến tranh và hoà bìnhAnna Karenina, nhà viết tiểu thuyết vĩ đại nhất trong tất cả các nhà viết tiểu thuyết. Tolstoy sinh ngày  9 tháng 9 năm 1828 mất ngày 20 tháng 11 năm 1910 là nhà giáo dục, nhà triết học, nhà đạo đức, người theo chủ nghĩa nhân đạo, hoà bình,  nổi tiếng với tư tưởng đối kháng không bạo động, được thể hiện xuyên suốt các tác phẩm của mình, ảnh hưởng sâu đậm tới nhiều nhân vật danh tiếng của thế kỷ XX như Gandhi, Luther King, … và Toni.

Toni sau khi tốt nghiệp trung học loại ưu năm 1945 đã theo học ngành khoa học xã hội nhân văn tại trường Đại học Howard và hoàn thành chương trình cao học tại Đại học Cornell, sau đó làm giảng viên tại Đại học Texas, Đại học Howard và Đại học Yale. Biệt danh “Toni” có từ những ngày còn học ở đại học. Năm 1958 bà lấy chồng là Harold Morrison, có hai con là Harold và Slade. Sau năm 1964 bà sống độc thân và làm trợ lí biên tập cho nhà xuất bản Random House chuyên sách giáo khoa tiểu bang New York. Sau đó, bà trở thành biên tập viên chính, biên tập sách của nhiều nhà văn nổi tiếng từ năm 1967. Toni xuất bản cuốn tiểu thuyết đầu tay “Mắt xanh” (The Bluest Eye) năm 1970, thu hút sự chú ý của công chúng Mỹ do sự mô tả sâu sắc cuộc sống và số phận của những người Mỹ gốc Phi. “Mắt xanh” nói về mơ ước của cô gái da đen ước mình có mắt xanh biểu tượng nét đẹp của người Mỹ da trắng, tác động sâu sắc đến sự thành kiến chủng tộc đang nhức nhối lương tâm nước Mỹ . Năm 1973, tiểu thuyết Sula của Toni trở thành sách bán chạy nhất và được trao Giải thưởng sách Quốc gia. Hai năm 1976 và 1977 bà dạy ở Đại học Yale và viết Bài ca Solomon (Song of Solomon), được trao Giải thưởng Quốc gia và Giải thưởng của Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ. Toni từ năm 1989 giữ chức giáo sư Đại học Princeton, chuyên gia giảng dạy văn học Mỹ – Phi, thỉnh giảng và viết phê bình. Kể từ năm 1981, bà là thành viên Viện Hàn lâm Văn học và Nghệ thuật Mỹ, Viện Hàn lâm các Khoa học xã hội và Khoa học chính xác Mỹ. Bà đã nhận được nhiều giải thưởng văn học có uy tín, trong đó có giải Pulitzer năm 1988 cho tiểu thuyết Người yêu dấu (Beloved). Trong tác phẩm này, bà đã chỉ ra tác động kinh hoàng của kiếp nô lệ đến tình cảm của người mẹ. Câu chuyện của một phụ nữ da đen cho rằng thà tự tay giết chết con gái mình còn hơn phải đưa con đi làm nô lệ đã ám ảnh lương tâm nước Mỹ vừa phục hồi sau cuộc nội chiến, hướng tới giá trị nhân văn đa sắc tộc, tôn trọng quyền con người, quyền được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc. Tiểu thuyết “Người yêu dấu” đã thành công vang dội. Năm 1993, bà được nhận giải Nobel, trở thành người phụ nữ da đen đầu tiên được trao giả thưởng cao quý này. “Tình yêu” (Love)  là tiểu thuyết mới nhất của bà xuất bản năm 2003, rất được yêu thích và bà trở thành một trong những biểu tượng của văn hóa Mỹ.

Những tác phẩm chính của Toni Morrison gồm có:

  • The Bluest Eye (Mắt xanh, 1970), tiểu thuyết
  • Sula (1973), tiểu thuyết
  • Song of Solomon (Bài ca Solomon, 1977), tiểu thuyết
  • Tar Baby (Thủy thủ nhóc, 1981), tiểu thuyết
  • Dreaming Emmett (Giấc mơ em, 1986), kịch
  • Beloved (Người yêu dấu, 1987), tiểu thuyết
  • Jazz (Nhạc Jazz, 1992), tiểu thuyết
  • Playing in the Dark (Chơi đêm, 1992), tiểu luận
  • Racing Justice (Thi đua công bằng, 1992), tiểu luận
  • Paradise (Thiên đường, 1998), tiểu thuyết
  • The Big Box (Chiếc hộp lớn, 2000), truyện thiếu nhi
  • The Book of Mean People (Sách đời thường, 2001), truyện thiếu nhi
  • Love (Tình yêu, 2003), tiểu thuyết.

Nguồn chính thông tin về Toni Morrison trên Wikipedia tiếng Việt, Literary Encyclopedia biography, Voices from the Gaps biography, The Nobel Prize in Literature 1993,  Toni trên thế giới tiếng Anh quá nổi tiếng, đặc biệt với Tình Yêu (Love), Người yêu dấu (Beloved), Bài ca Solomon (Song of Solomon), Mắt xanh (The Bluest Eye). Toni ở Việt Nam là khát khao xanh chờ đợi của tôi và bạn đọc Việt, mong muốn được thưởng thức các bản chuyển ngữ uy tín, danh tiếng để người Việt được lắng đọng và chia sẻ tầm tư tưởng nhân văn cao vọi cùng với nghệ thuật văn chương bậc thầy của một nhà văn lớn đương đại. Người Việt mở rộng cửa giao lưu văn hóa nhìn ra thế giới.

BÁU VẬT NƠI ĐẤT VIỆT

Pho tượng Phật Quan Âm
trở về từ biển cả
chùa Thanh Lương Phú Yên

đẹp và kỳ lạ quá !

Thành Hoàng Lương Văn Chánh
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Lúa siêu xanh Việt Nam.
Mằng Lăng lưu chữ Việt.

Lời thương nơi Tháp Nhạn
An Hải mả Cao Biền
Ghềnh Đá Đĩa Tuy An
Báu vật nơi đất Việt.


Bạch Ngọc Hoàng Kim

https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/pho-tuong-ngoc-quan-am/

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là pho-tuong-ngoc-quan-am.jpg

Tôi biết câu chuyện pho tượng Ngọc Quan Âm từ thầy Thích Giác Tâm và chính cuộc đời mình Tôi từng ngắm suốt buổi sáng tượng Phật nằm, và từng hoan hỉ xúc động khi lắng nghe huyền tích và định kể câu chuyện này theo trình tự bố cục chặt của lối viết khoa học, cô lập tách biệt. Chuyện nhỏ gọn gàng này dễ hiểu, là một món quà quê trước trong và sau mùa Rằm Đản Sinh gửi tới quý thầy bạn. Nhưng thật lạ lùng, không hiểu sao, có một nghiệp lực vô hình mạnh mẽ cuốn hút tôi, mách bảo và khai mở cho tôi, khuyên rằng hãy vừa noi lối cũ vừa cần tiếp hợp mới. Tôi hào hứng mở đầu với sự chia sẻ bài viết ‘Người giàu và người nghèo‘ của Elon Musk do anh Nguyễn Văn Bộ, “Thầy bạn trong đời tôi” kể tại “Mưa tháng Năm nhớ bạn”. Câu chuyện ấy ở đây: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/mua-thang-nam-nho-ban/ và được tích hợp trong năm bài “Pho tượng Ngọc Quan Âm” gồm 1) Người giàu và người nghèo; 2) A Na Bà Chúa Ngọc; 3) Chuyện đồng dao cho em; 4) Chuyện Ngậm Ngãi tìm trầm; 5) Báu vật nơi đất Việt

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/pho-tuong-ngoc-quan-am/

1.

NGƯỜI GIÀU VÀ NGƯỜI NGHÈO

Người giàu và người nghèo khác nhau như thế nào? Có một lần Elon Musk làm diễn giả cho một hội nghị ở Hoa Kỳ về đầu tư và tài chính, phần hỏi đáp, ông nhận được một câu hỏi khiến mọi người phải bật cười. “Thưa ông, là người giàu nhất thế giới, ông có thể chấp nhận việc con gái mình kết hôn với một người đàn ông nghèo và bình thường không?”

Ông Elon Musk nói: (Tôi HK thêm vào các số ngắt câu 1, 2, 3, 4, 5 theo ý riêng của mình để nắm rõ cốt lõi của câu chuyện kể) 1) Trước hết, hãy hiểu rằng “Giàu có” không có nghĩa là có một tài khoản ngân hàng hoành tráng. Giàu có trước hết là khả năng tạo ra của cải. Ví dụ: Một người nào đó trúng xổ số hoặc thắng bạc. Ngay cả khi anh ta thắng 100 triệu thì anh ta cũng không trở thành người giàu: Anh ta chỉ là người nghèo với rất nhiều tiền. Đó là lý do tại sao 90% triệu phú xổ số trở lại nghèo khổ sau 5 năm. 2) Ta có thể gặp những người giàu có nhưng không có tiền. Ví dụ: Hầu hết các doanh nhân. Họ đã và đang trên con đường trở nên giàu có ngay cả khi họ chưa có tiền, bởi vì họ đang phát triển trí thông minh tài chính của mình và với tôi đó chính là sự giàu có. Nói một cách đơn giản: Người giàu có thể chết để trở nên giàu có, trong khi người nghèo có thể giết người để có tiền. 3) Nếu bạn thấy một người trẻ quyết định rèn luyện, học hỏi những điều mới, luôn cố gắng cải thiện bản thân không ngừng, hãy tin rằng anh ta là một người giàu có. Nếu bạn thấy một người trẻ tuổi nghĩ rằng anh ta nghèo là do nhà nước, rằng người giàu toàn là người xấu, kẻ trộm và luôn chỉ trích người khác, hãy tin rằng anh ta là một người nghèo. 4) Người giàu tin rằng họ chỉ cần thông tin và học hỏi để thành công, người nghèo nghĩ rằng người khác phải cho họ tiền để họ cất cánh. 5) Tóm lại, khi tôi nói rằng con gái tôi sẽ không lấy một người đàn ông nghèo, tôi không nói về tiền bạc. Tôi đang nói về khả năng tạo ra của cải ở người đàn ông đó. Xin lỗi vì đã nói điều này, nhưng hầu hết tội phạm đều là những người nghèo. Khi đứng trước đồng tiền, họ mất lý trí, đó là lý do họ cướp giật, trộm cắp… Đối với họ đó là lối thoát vì họ không học hỏi được kỹ năng tự mình kiếm tiền. Như chuyện về người bảo vệ nghèo của một ngân hàng, một lần anh tìm thấy một chiếc túi đầy tiền, anh ta đã lấy chiếc túi và đi đưa cho giám đốc ngân hàng. Mọi người gọi người đàn ông này là đồ ngốc, nhưng thực tế người đàn ông này chỉ là một người giàu chưa có tiền. Để cám ơn, ngân hàng mời anh làm lễ tân, ngoài giờ làm anh đi học. Ba năm sau anh được đề cử làm giám đốc khách hàng và 10 năm sau anh trở thành quản lý khu vực của ngân hàng này, dưới quyền anh có hàng trăm nhân viên. Thu nhập của anh bây giờ gấp nhiều lần số tiền anh trả lại ngày nào, lại có vị trí xã hội và lòng tự hào mà việc giấu giếm số tiền không thể đem lại!

Bạn đồng tình với Elon Musk chứ? Ông ấy trả lời đúng và thẳng thắn, nhưng dường như còn nhiều khác biệt về góc nhìn, hoàn cảnh, nền văn hóa, cách tiếp cận giàu nghèo với cách trả lời. Ông ấy nói “Tóm lại, khi tôi nói rằng con gái tôi sẽ không lấy một người đàn ông nghèo, tôi không nói về tiền bạc, tôi đang nói về khả năng tạo ra của cải ở người đàn ông ấy” Tôi Nhớ lại và suy ngẫm, Nhớ kỷ niệm một thời vừa viết tiếp nối một chuyện thực đời thường Ngọc lưu ly nhớ Mẹ khi bạn học Nguyễn Quế đăng bài thơ xúc động

NHỚ DÁNG MẸ XƯA
Nguyễn Quế
(Viết nhân ngày của Mẹ 8/5)

Lặng thầm trên khúc đường thôn
Một đôi quang gánh bước dồn chiều quê

Miếng trầu bỏm bẻm đỏ hoe
Còng lưng vai mẹ chở che gió trời
Dáng đi của cả cuộc đời
Mà nay vẫn lặng như thời mẹ đi

Nghe trong tiếng gió thầm thì
Bước chân còn gợi những gì xa xưa
Xót lòng thương nỗi nắng mưa
Quanh năm tần tảo sớm trưa nhọc nhằn

Lặng thầm theo mỗi bước chân
Nhớ về dáng mẹ khuất dần đường quê.

Tôi nối tiếp bạn học của mình bằng bài thơ

NGỌC LƯU LY NHỚ MẸ
Hoàng Kim

Bạn nhớ dáng mẹ lưng còng
Mình thương mẹ mất lúc còn thanh xuân

Giáp Thìn bốn chín chân vân
Tuổi thơ vắng mẹ rưng rưng cuộc đời
Ít năm giặc giết cha rồi
Gian nan càng trải một thời truân chiên

Quê hương lưu bóng mẹ hiền
Thiêng liêng đất nước lời nguyền núi sông

Trưa nay tôi xúc động với Đường xuân đời quên tuổi Tôi lắng lòng mình thấu hiểu, và viết tiếp Pho tượng Ngọc Quan Âm, theo khuyến khích của những người thân trong gia đình và các thầy bạn quý.

2

cropped-dsc00927.jpg

A NA BÀ CHÚA NGỌC
Hoàng Kim

Nha Trang ngày nay ở tại tháp Po Nagar có A Na Bà Chúa Ngọc Tích truyện Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc do cụ Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm 1857 (Tự Đức thứ 9), bản dịch của Quách Tấn, văn bia này (hình dưới) do ông bà Lê Vinh tạc năm 1970. Hình tượng Mẹ thật tuyệt vời trong tín ngưỡng Đạo Mẫu Việt Nam với văn hóa Việt Chăm. Những công trình nghiên cứu lịch sử văn hóa gần đây của các tác giả Ngô Đức Thịnh 2009, và Lê Đình Phụng 2015, và Huỳnh Thiệu Phong 2016 với nhiều công trình khác đã giúp tôi soi thấu nhiều góc khuất để tích cũ viết lạị bài A na Bà Chúa Ngọc. Cám ơn các tác giả của những tài liệu đã trích dẫn (HK).

BÀ THIÊN Y A NAN
Lược sử


Xưa tại núi Đại An (Đại Điển) có hai vợ chồng Ông tiều đến cất nhà và vỡ rẫy trồng dưa nơi triền núi. Dưa chín thường hay bị mất.

Một hôm ông rình, bắt gặp một thiếu nữ trạc chừng chín mười tuổi hái dưa rồi giỡn dưới trăng. Thấy cô gái dễ thương ông đem về nuôi. Hai ông bà vốn không con cái, nên đối với thiếu nữ thương yêu như con ruột.

Một hôm trời mưa lụt lớn, cảnh vật tiêu điều buồn bã thiếu nữ lấy đá chất ba hòn dã sơn và hái hoa lá cắm vào, rồi đứng ngắm làm vui. Cho rằng hành vi của con không hợp với khuê tắc, ông tiều nặng tiếng rầy la. Không ngờ đó là một tiên nữ giáng trần đang nhớ cảnh Bồng Lai. Đã buồn thêm bực nhân thấy khúc kỳ nam theo nước nguồn trôi đến tiên nữ bèn biến thân vào khúc kỳ, để mặc cho sóng đưa đẩy. Khúc kỳ trôi ra biển cả rồi tấp vào đất Trung Hoa. Mùi hương bay ngào ngạt. Nhân dân địa phương lấy làm lạ rũ đến xem. Thấy gỗ tốt xúm nhau khiêng, nhưng người đông bao nhiêu cũng không giở nổi.

Thái tử Bắc Hải nghe tin đồn, tìm đến xem hư thực, thấy khúc gỗ không lớn lắm, lẽ gì nặng đến nỗi giở không lên, Thái Tử bèn lấy tay nhấc thử. Chàng hết sức lạ lùng vì khúc gỗ nhẹ như tờ giấy, bèn đem về cung, trân trọng như một bảo vật.

Một đêm, dưới bóng trăng mờ. Thái Tử thấy có bóng người thấp thoáng nơi để khúc kỳ nam. Nhưng lại gần xem thì tứ bề vắng vẻ, bên mình chỉ phảng phất mùi hương thanh thanh từ khúc kỳ bay ra. Chàng quyết rình xem mấy đêm liền không hề thấy khác lạ. Chàng không nản chí. Rồi một hôm, đêm vừa quá nửa, bốn bề im phăng phắc, một giai nhân tuyệt sắc theo ngọn gió hương ngào ngạt từ trong khúc kỳ nam bước ra.

Thái Tử vụt chạy đến ôm choàng. Không biến kịp, giai nhân đành theo Thái Tử về cung và cdo biết rõ lai lịch.

Giai nhân xưng là Thiên Y A Na.

Thái Tử vốn đã trưởng thành nhưng chưa có lứa đôi vì chưa chọn được người xứng ý. Nay thấy A Na xinh đẹp khác thường bèn tâu phụ hoàng xin cưới làm vợ. Nhà vua xin bói cát hung. Trúng quẻ “đại cát” liền cử lễ thành hôn.

Vợ chồng ăn ở với nhau rất tương đắc và sanh được hai con, một trai, một gái, trai tên Trí, gái tên Quý, dung mạo khôi ngô.

Thời gian qua trong êm ấm Nhưng một hôm lòng quê thúc giục Thiên Y bồng hai con nhập vào kỳ nam trở về làng cũ.

Núi Đại An còn đó nhưng vợ chồng ông tiều đã về cõi âm Thiên Y bèn xây đắp mồ mã cha mẹ nuôi và sửa sang nhà cửa để phụng tự. Thấy dân địa phương còn dã man, bà đem văn minh Trung Hoa ra giáo hóa, dạy cày cấy, dạy kéo vải, dệt sợi .. và đặt ra lễ nghi .. từ ấy ruộng nương mở rộng đời sống của nhân dân mỗi ngày mỗi thêm phúc túc phong lưu công khai phá của bà chẳng những ở trong địa phương và các vùng lân cận cũng được nhờ. Rồi một năm vào ngày lành tháng tốt, trời quang mây tạnh một con chim hạc từ trên mây bay xuống, bà cùng hai con lên lưng hạc bay về tiên.

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc Hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc Hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

Nơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Ngày 20 5 năm Tự Đức thứ 9 ‘1857’ PHAN THANH GIẢN
Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn

Văn bia viết về Thiên Y A Na tại tháp Po Nagar, Nha Trang do cụ  Phan Thanh Giản soạn ngày 20 tháng 5 năm Tự Đức thứ 9 (1857) – bản dịch của Quách Tấn – ông bà Lê Vinh tạc năm 1970 (Thiên Y A NA Wikipedia Tiếng Việt), văn bản đánh máy của Hoàng Kim sao y văn bản tại tháp Po Nagar, Nha Trang.

Thien_Y_A_Na

Điện thờ Thiên Y A Na Bà Chúa Ngọc tại tháp Po Nagar, Nha Trang . Bài nghiên cứu của Huỳnh Thiệu Phong 2016 “TỪ YANG PO INÂ NÂGAR ĐẾN THIÊN YANA DIỄN NGỌC PHI: DẤU ẤN CỦA SỰ GIAO THOA VĂN HÓA VIỆT – CHĂM TRONG DÒNG CHẢY VĂN HÓA VIỆT NAM” (xem chi tiết tại A Na bà chúa Ngọc) và tác phẩm Đạo Mẫu Việt Nam của Ngô Đức Thịnh 2009, Lê Đình Phụng 2015 đã cung cấp một góc nhìn khái quát về lịch sử văn hóa về lĩnh vực này.

NgoDucThinh2009DaoMauVietNam

ĐẠO MẪU VIỆT NAM (tập 1 & tập 2)
Ngô Đức Thịnh 2009 (NXB Tôn Giáo 2009)
Sách Việt Dec 24, 2015

Bộ sách gồm 2 tập gần 1000 trang giấy khổ lớn này là công trình nghiên cứu qua nhiều năm của Giáo sư Tiến sĩ Ngô Đức Thịnh, thuộc Trung tâm Nghiên cứu và bảo tồn tín ngưỡng Việt Nam, bao gồm hầu hết những vấn đề liên quan đến tục thờ Mẫu ở Việt Nam từ xưa đến nay và trên khắp ba miền Nam, Trung, Bắc, tất nhiên là được trình bày dưới sự nhìn nhận và đánh giá của khoa học hiện đại.

Sách chia làm 6 phần. Phần thứ nhất trình bày những thành tựu nghiên cứu hiện nay về những vấn đề chung nhất đối với đạo Mẫu. Phần thứ hai, thứ ba và thứ tư tuần tự phân tích chi tiết về đạo Mẫu ở miền Bắc, miền Trung và miền Nam. Phần thứ năm đánh giá chung về đạo Mẫu và các giá trị tích cực cũng như tiêu cực của nó. Cuối cùng, phần thứ sáu là phần sưu tầm các bản văn thơ, tư liệu bằng văn bản được lưu truyền trong đạo Mẫu

LeDinhPhung

ĐỐI THOẠI VỚI NỀN VĂN MINH CỔ CHĂM PA
Lê Đình Phụng 2015 (Bảo tàng lịch sử Việt Nam)
Cập nhật: 7:22 PM GMT+7, Thứ năm, 23/07/2015

Tác giả Lê Đình Phụng; Nhà Xuất bản Khoa học xã hội; Khổ sách 16 cm x 24 cm; Số lượng 302 trang; Năm 2015.

Văn hóa Champa là một nền văn hóa lớn, độc đáo, mang bản sắc riêng, có nhiều đóng góp quan trọng vào văn hóa dân tộc trong lịch sử và tỏa sáng đến ngày nay. Kế thừa từ văn hóa cội nguồn của tộc người và sự tiếp thu hội nhập từ văn minh Ấn Độ đưa lại, người Chăm đã xây dựng và phát triển tạo nên một nền văn hóa rực rỡ có mặt từ Nam đèo Ngang (tỉnh Quảng Bình) chạy dài theo dải đất miền Trung đến bờ Bắc sông Đồng Nai (tỉnh Bình Thuận), lan tỏa lên vùng cao nguyên đại ngàn hùng vĩ cùng hệ thống các đảo ven biển miền Trung.Lê Đình Phùng là một cán bộ nghiên cứu công tác tại Viện Khảo cổ. Ông được phân công nghiên cứu về khảo cổ học Champa. Sau hơn 30 năm nghiên cứu về nền văn hóa này, với lòng yêu nghề và niềm đam mê  đã thôi thúc tác giả luôn tìm hiểu, tự đặt ra những câu hỏi và tự tìm kiếm câu trả lời. Cuốn sách “ Đối thoại với nền văn minh cổ Champa” như sự tự độc thoại với nền văn minh trong quá khứ.  Tác giả không nêu các thành tựu nghiên cứu đã đạt được mà chỉ nêu những vấn đề còn chưa có lời giải thỏa đáng.

Tác phẩm gồm 4 nội dung chính:

Phần  I: Đối thoại với chủ nhân nền văn hóa Champa – Người Chăm
Phần  II : Đối thoại với lịch sử Champa
Phần III : Đối với tín ngưỡng và tôn giáo Champa
Phần IV : Đối thoại với di sản vật chất Champa

Tháp Bà Ponagar Nha Trang được xem là danh thắng bậc nhất của vịnh Nha Trang Khánh Hòa. Theo thông tin của Trung tâm bảo tồn di tích tỉnh Khánh Hòa về huyền bí đền tháp Ponagar thì “Ponagar như một huyền thoại về kiến trúc Chămpa, đến nay có lẽ chỉ xếp sau Di sản Mỹ Sơn nhưng hệ thống 22 cột trụ (Mandapa) mà Ponagar có được thì không đâu sánh bằng. Khám phá Ponagar, khám phá những huyền bí xung quanh ngọn bảo tháp tuyệt đẹp này đủ làm cho quý khách say đắm kiệt tác kiến trúc Chămpa cổ trên mảnh đất Khánh Hòa”.

Tháp Bà Ponagar tọa lạc trên đồi Cù Lao cao khoảng trên 20m (so với mực nước biển), diện tích theo số liệu mới nhất 17.683,6m2, thuộc Phường Vĩnh Phước, cách trung tâm thành phố  Nha Trang khoảng 2km về phía bắc. Khu di tích là quần thể công trình kiến trúc nghệ thuật độc đáo của vương quốc Chăm Pa cổ, được xây dựng khoảng từ giữa thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ XIII. Nơi đây là trung tâm tôn giáo thờ Nữ thần Ponagar (người Mẹ xứ sở của dân tộc Chăm) và được người Việt tiếp tục gìn giữ, phát triển làm nơi thờ Thiên Y Thánh Mẫu của cộng đồng cư dân khu vực Nam Trung bộ và Tây Nguyên. Với những giá trị tiêu biểu, di tích đã được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) xếp hạng di tích cấp Quốc gia năm 1979. Quần thể di tích phân bố trên hai mặt bằng: Tháp cổng và Mandapa; khu đền tháp với các công trình kiến trúc và hoạt động văn hoá tiêu biểu:

1. Tháp cổng

Được người Pháp phục dựng đầu Thế kỷ XX, theo môtip kiến trúc Chăm,  bên trên có dòng chữ “Tháp Thiên Y Thánh Mẫu”. Cổng chính của Tháp Bà vốn nằm trên trục thẳng với Tháp Chính và Mandapa, nhưng đến nay cổng đó không còn. Theo khảo tả của nhà nghiên cứu H. Parmantier, đầu thế kỷ XX vẫn còn kiến trúc Tháp cổng.

2. Khu Mandapa

Đây là nơi các tín đồ chuẩn bị lễ vật và tịnh tâm trước khi hành lễ trên Tháp Chính. Kiến trúc gồm bốn hàng cột trụ hình bát giác (10 trụ lớn và 12 trụ nhỏ). Trên thân cột lớn ở độ cao bằng cột nhỏ có một ô hình chữ nhật khoét sâu vào thân cột, có chức năng như những “lỗ mộng” trong kiến trúc gỗ. Các nhà nghiên cứu cho rằng “lỗ mộng” có chức năng là điểm đỡ cho một kết cấu xà ngang để nâng đỡ mái che ở phía trên nhưng đã đổ và hiện nay không để lại vết tích.

Trước đây, Mandapa còn có hai cột nhỏ, thấp hơn nền, ở hai bên bậc lên xuống và thẳng ra cổng tháp cũ. Cổng, Mandapa và tháp lớn ở trên tạo thành trục thẳng đông – tây. Kiến trúc Mandapa hiện nay có cùng niên đại với niên đại cuối cùng của tháp chính, khoảng thế kỷ XI – XII.

Di tích Tháp Bà Ponagar là công trình kiến trúc, nghệ thuật của Vương quốc Chăm pa cổ. Vật liệu xây dựng bằng gạch nung, xốp, nhẹ và thoát nước rất nhanh, nên hầu như cũng không có hiện tượng rêu bám, các viên gạch chỉ bị bào mòn theo thời gian, phô ra màu đen, thể hiện gạch được nung ở nhiệt độ cao; các viên gạch liền mạch, khít chặt với nhau không để lộ ra mạch kết dính. Đây là điều đặc biệt về kỹ thuật nung gạch và xây dựng tháp Chăm nhưng đã bị thất truyền. Nhiều nhà khoa học nghiên cứu phương pháp làm gạch và xây tháp của người Chăm cổ nhưng đến nay vẫn chưa có một giải đáp thuyết phục.

Theo các nhà nghiên cứu, người Chăm xưa sử dụng phương pháp mài chập: Mài hai mặt viên gạch với nhau tạo ra những vết xước, bôi chất kết dính và xây từng viên một. Có giả thuyết cho rằng: Gạch ướt (gạch mộc), bôi chất kết dính (có thể là nhựa cây dầu rái, hoặc cây bời lời trộn với mật mía, tro của trấu…) và nung cả ngôi tháp, nhưng qua nghiên cứu cho thấy nhiệt độ nung của các viên gạch xây tháp khá đều nhau. Với bức tường dày (khoảng 0,5m – 2m) như vậy nếu xây xong tháp mới nung thì không thể có nhiệt độ nung đều nhau giữa các viên gạch. Chính vì vậy, cách thức xây dựng cũng như nghệ thuật xây dựng tháp Chăm đến nay vẫn là một điều bí ẩn.

Từ khu Mandapa lên khu đền tháp có 36 bậc cấp dốc và thẳng đứng. Tương truyền: để thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần, đặc biệt là đối với Nữ thần Ponagar, các tín đồ khi lên trên khu đền tháp hành lễ phải bò và giật lùi khi xuống không quay lưng về phía đền tháp để thể hiện sự tôn kính đối với các vị thần; Sau này để thuận tiện cho du khách, khu đền tháp có thêm lối lên xuống bằng đá phía bên tay trái.

3. Cảnh quan khu di tích

Đồi Cù Lao được dòng sông Cái bao quanh, người Chăm gọi là Yatran (tức là Sông Lau). Trên đồi có nhiều cây rừng cổ thụ hàng trăm năm tuổi đã tồn tại cùng những ngọn tháp cả ngàn năm tuổi. Từ đây, du khách sẽ chiêm ngưỡng thành phố Nha Trang với cửa biển Cù Huân, cầu Xóm Bóng bắc qua Sông Cái (cây cầu mang tên Xóm Bóng, nơi có điệu múa linh thiêng “múa bóng” của các vũ nữ dâng lên nữ thần Ponagar trong dịp lễ hội) và vịnh Nha Trang với những hòn đảo: đảo Yến, Hòn Tre, Hòn Nội, Hòn Ngoại …

4. Khu đền tháp

Theo thống kê của nhà nghiên cứu H. Parmantier, đầu thế kỷ XX di tích có 6 ngôi tháp, nhưng hiện tại còn bốn ngôi đền tháp còn tương đối hoàn chỉnh so với các công trình đền tháp Chămpa còn lại ở Việt Nam: Tháp Chính (Tháp Đông Bắc), Tháp Nam, Tháp Đông Nam và Tháp Tây Bắc. Tiếng Chăm gọi các tháp là các Kalan, theo tiếng Việt có nghĩa là đền, tháp, nhưng theo tín ngưỡng của những người dân địa phương gọi đây là các dinh.

– Tháp Chính (Tháp Đông Bắc) có quy mô lớn nhất, mang đặc trưng cơ bản, tiêu biểu nhất của ngôi tháp Chăm truyền thống. Tháp cao khoảng 23 mét, có ba phần: Đế tháp, thân tháp và mái tháp. Mái tháp ba tầng thu nhỏ dần về phía trên, tầng trên là hình ảnh thu nhỏ của tầng dưới. Trên các tầng tháp được trang trí các linh vật: Ngỗng, dê, voi và các tu sĩ cầu nguyện (có người gọi là các ápsara). Trên cửa, được trang trí bằng một bức phù điêu hình lá đề: Thần Siva đang trong tư thế nhảy múa hân hoan cùng với hai nhạc công của mình (thổi sáo, đánh xập xòe), một chân dẫm lên lưng thần bò Nanđin. Phù điêu có niên đại thế kỷ XI và là một trong những tấm phù điêu đẹp nhất của văn hóa Chăm pa còn được lưu giữ ở Việt Nam.Tháp có bốn cửa theo bốn hướng đông – tây – nam và bắc nhưng chỉ có cửa hướng đông là được mở còn các hướng khác là ô cửa giả. Cửa hướng đông được đỡ bằng hai trụ đá, có ghi chữ Chăm cổ và chữ Sanscrit. Tháp chính thờ nữ thần Yan Po Inư Naga (người mẹ xứ sở của dân tộc Chăm); tương truyền bà sinh ra từ áng mây và bọt biển, Bà là nữ thần chủ của cả vương quốc Chăm Pa, được thờ ở xứ sở Kauthara và cũng là Thiên Y A Na Thánh Mẫu theo tín ngưỡng thờ “Mẫu” của người Việt.

Tượng Nữ thần được tạc bằng một khối đá granit nguyên khối, trong tư thế ngồi uy nghiêm trên bệ đá hình hoa sen, lưng tựa vào phiến đá lớn hình lá đề. Đây là một kiệt tác về điêu khắc ChămPa, là sự kết hợp hài hòa giữa kỹ thuật tượng tròn và chạm nổi. Toàn bộ pho tượng và tấm tựa được đặt trên một bệ Yoni khá lớn bằng đá. Với bố cục: tượng thờ là Linga, bệ thờ là Yoni, đây là bộ Linga-Yoni hoàn chỉnh, là sự kết hợp giữa giống đực và giống cái, tạo nên sự sống  và là vật thể linh thiêng của dân tộc Chăm pa. Hai bên Tháp thờ hai người con của Bà (Công chúa Quý và hoàng tử Trí, theo tục thờ của người Việt).

– Tháp Nam: Thờ thần Cri Cambhu (tên gọi khác của thần Shiva), tháp cao khoảng 18m; có niên đại thế kỷ XIII. Tháp có bình đồ hình vuông, mái tháp có hình dạng giống như quả chuông úp thu nhỏ về phía trên. Đặc biệt trên đỉnh mái tháp có gắn một biểu tượng trụ tròn bằng đá, đó chính là Linga biểu tượng sức mạnh của vị thần Siva, vị thần hủy diệt để thế giới sẽ tái sinh mang lại những điều tốt đẹp đến cho con người cũng như vạn vật. Không gian thờ tự bên trong là bộ sinh thực khí Linga -Yoni. Theo tín ngưỡng của người Việt: Tháp thờ ông Nam Hải (chồng Thánh Mẫu Thiên Y A Na).

– Tháp Đông Nam: cao khoảng 7m, có mái hình thuyền. Đây có thể là kiến trúc phụ trong quần thể kiến trúc và thuộc loại muộn, khoảng thế kỷ XIII. Tháp bị xâm hại nhiều bởi yếu tố thời gian và điều kiện tự nhiên. Trong tháp có bộ Linga – Yoni bằng đá. Tháp thờ con trai thần Shiva là thần Skanda (thần chiến tranh). Người Việt gọi là Dinh Cố, thờ bố mẹ nuôi của Bà Thiên YA Na.

– Tháp Tây Bắc: Ở phía sau Tháp chính, cao khoảng 9m, có một tầng mái hình yên ngựa. Hệ thống cửa giả được điêu khắc những pho tượng bằng gạch nung: Trên ô cửa giả phía nam là hình ảnh chim thần Garuda, ô cửa giả phía bắc là hình ảnh đầu con Sư Tử, ô cửa giả phía tây là hình tượng nữ thần cưỡi voi. Trong Tháp là bộ Linga – Yoni. Tháp thờ con trai thứ hai của thần Shiva là thần Ganesa (thần đầu voi) biểu tượng của sự thông thái, may mắn và hạnh phúc. Người Việt gọi là Dinh cô cậu (thờ 2 người con của Bà Thiên Y A Na). Theo bia kí và khảo cổ học, tháp có niên đại xây dựng năm 813 song đã được trùng tu nhiều lần, nên niên đại cuối cùng từ thế kỷ XIII – XIV.

5. Bia ký

Trên Tháp còn nhiều bia ký trên các cột đá, trên gạch bằng chữ Phạn (Sanscrit) và chữ Chăm cổ, một số bia ký chưa dịch được nội dung.

Phía sau Tháp chính có tấm bia do Phan Thanh Giản cho khắc vào năm 1856 (triều vua Tự Đức), bằng chữ Hán Nôm nói về truyền thuyết Thiên Y A Na Thánh Mẫu của người Việt.

Bên cạnh là tấm bia dựng vào năm 1972, nội dung về dịch sang chữ quốc ngữ truyền thuyết bà Thiên Y A Na theo “Xứ Trầm hương” của Quách Tấn.

Tấm bia đá thứ ba do vị quan đứng đầu tỉnh Khánh Hòa khắc vào năm 1881(nội dung)

 Và tấm bia đá giới thiệu về di tích Tháp Bà Ponagar, bằng chữ Quốc ngữ, được dựng vào năm 2010.

6. Lễ hội Tháp Bà

Diễn ra từ ngày 20 – 23 tháng 3 (Âm lịch) hàng năm, thể hiện quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa Việt – Chăm, nên lễ hội Tháp Bà đã trở thành lễ hội văn hóa dân gian lớn nhất ở Khánh Hòa, có sức lan toả cả vùng Nam Trung Bộ – Tây nguyên. Tiến trình diễn ra có sự linh thiêng của phần lễ và sự đa dạng, náo nhiệt của phần hội.

 Phần lễ: bao gồm các lễ như lễ thay y, lễ thả hoa đăng, lễ cầu Quốc thái Dân an, tế lễ cổ truyền…

 Phần hội: có múa Chăm truyền thống, múa Bóng (vũ nữ đội mâm hoa, quả, đèn…múa uyển chuyển theo điệu nhạc trầm bổng), chầu văn ca ngợi công đức Thánh Mẫu, các trò chơi dân gian, biểu diễn nghệ thuật truyền thống. Phần hội mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc thu hút đông đảo người Việt, người Chăm và hàng vạn du khách trong và ngoài nước tham dự .

Với đặc trưng tiêu biểu, lễ hội Tháp Bà Ponagar được công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia  năm 2012.

7. Hoạt động trưng bày, biểu diễn

Phòng trưng bày: Giới thiệu hình ảnh, hiện vật liên quan đến di tích. Pho tượng Bà được phục chế theo tỉ lệ 1/1, được đặt ở giữa phòng trưng bày (giới thiệu về pho tượng: các cánh tay, tính nhân văn…); hiện vật, linh vật được phục chế; những bức ảnh đối chứng khu đền tháp trước và sau khi tu bổ…

Các thiếu nữ dân tộc Chăm múa các vũ điệu truyền thống dưới không gian tháp cổ, du khách như được chìm đắm trong khí thiêng của cõi tâm linh, chiêm ngưỡng từng công trình kiến trúc, nghệ thuật điêu khắc tài tình; Đồng thời có cơ hội mua sắm những sản phẩm đặc trưng truyền thống được làm từ đôi bàn tay khéo léo của nghệ nhân Chăm như: dệt thổ cẩm, gốm Bầu Trúc và sản phẩm độc đáo của vùng đất Khánh Hoà: trầm hương, yến sào, tranh cát, tượng nghệ thuật bằng đất nung, thư pháp, thư hoạ trên nhiều vật liệu…”

AmChuaNhaTrang
Am Chúa được xây dựng trên núi Ðại An còn gọi là Qua Sơn (núi Dưa) thuộc thôn Ðại Ðiền Trung, xã Diên Ðiền, huyện Diên Khánh. Ðây là nơi thờ Thiên Y Ana Thánh Mẫu, một vị phúc thần rất được kính trọng ở Khánh Hòa. Theo sự tích được ghi lại trong một tấm bia đá từ năm 1856 ở Tháp Bà, Am Chúa được coi là nơi phát tích của Bà lúc ấu thơ sống với cha mẹ nuôi, còn Tháp Bà Nha Trang là nơi thờ Bà khi đã hiển thánh. Bởi vậy, ngay từ đầu triều Nguyễn, Thiên Y Ana đã được sắc phong là Hồng Nhơn Phổ Tế Linh Ứng Thượng Ðẳng Thần và tại Am Chúa mỗi khi tế lễ thường được tổ chức theo nghi lễ quốc tế do quan đầu tỉnh làm chủ tế. 

Lễ hội Am Chúa được tổ chức vào ngày mùng một tháng ba âm lịch hàng năm, mở đầu cho lễ hội Tháp Bà truyền thống của nhân dân Khánh Hòa được tổ chức vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Có thể khẳng định, lễ hội Am Chúa là nơi còn bảo lưu được nhiều nhất những nghi thức lễ hội cổ truyền của người Việt ở Khánh Hòa.

A NA BÀ CHÚA NGỌC

A Na bà chúa Ngọc
Mây lành Phổ Đà Sơn
Cát đá đất miền Trung
Về với vùng văn hóa

Ngọc Phương Nam ngày mới
Về với vùng cát đá
Giống sắn tốt Phú Yên
Lúa siêu xanh Phú Yên


Báu vật nơi đất Việt
A Na bà chúa Ngọc
Châu Văn Tiếp Phú Yên
Cao Biền trong sử Việt


Nha Trang và A. Yersin
Ông Rhodes chữ tiếng Việt
Sông Kỳ Lộ Phú Yên
Con đường xanh yêu thương


Cuối dòng sông là biển

Hoàng Kim

3

CHUYỆN ĐỒNG DAO CHO EM

Bạn hẳn nhớ Chuyện đồng dao cho em và phần 2 tích truyện A Na Bà Chúa Ngọc của chuyện dài Pho tượng Ngọc Quan Âm, có bia ký mà người viết là cụ Phan Thanh Giản, quan đại thần Thượng thư Lễ nghi thảo văn, theo bản dịch Quách Tấn, Văn bia đề ngày 20 tháng 5 năm 1857 (Tự Đức thứ 9). Những câu cuối của văn bia này như dưới đây:

Nhân dân địa phương nhớ ơn đức xây tháp tạc tượng vào năm 817 phụng thờ và mỗi năm vào ngày bà thăng thiên 23. 3 âm lịch tổ chức lễ múa bóng dâng hương hoa rất long trọng. Ở Bắc Hải Thái Tử trông đợi lâu ngày không thấy vợ con trở về bèn sai một đạo binh dong thuyền sang Đại An tìm kiếm. Khi thuyền đã đến nơi thì bà đã trở về Bồng đảo. Người Bắc Hải ỷ đông hà hiếp dân địa phương ngờ rằng dân địa phương nói dối bèn hành hung không giữ lễ xúc phạm thần tượng, nhân dân bèn thắp nhang khấn vái. Liền đó gió thổi đá bay đánh đắm thuyền của Thái Tử Bắc Hải.

N
ơi đây nổi lên một hòn đá lớn tục gọi là đá chữ.

Hòn đá lớn ấy nay ở đâu? Năm 817 là năm nào thuộc thời nào Hậu Đường trong lịch sử Việt? Trầm Hương Kỳ Nam Nha Trang Phú Yên liên hệ gì với pho tượng Ngọc Quan Âm? núi Chúa Đại An, Đầm Ô Loan Núi Cách Diều, sinh lộ Vũng Rô biển Phú Yên qua Đắk Lắk nối Stung Treng tới hợp lưu sông Me kong với tầm nhìn Tỉnh Hải Quân trong bản đồ thời Đường có quan hệ gì với khu dự án Vạn Ninh Bắc Vân Phong Khánh Hòa ngày nay? Mộ Cao Biền ở Phú Yên “Đầm Môn xóm Cát Cao Biền/ có đôi chim Nhạn đang chuyền cành Mai”/ “Ngó ra thấy mả Cao Biền./ Nhìn vào thấp thoáng Ma Liên Chóp Chài”/ “Đá Bia Đại Lãnh Phú Yên quan hệ gì với Đá Đứng’ ‘miếu cổ Cao Quân’/‘Giang sơn bến Lội’ ‘Hoành Linh Long Xà’/‘Tử Sinh’ ‘Cao Cát Mạc Sơn’ “Lẩy bẩy như Cao Biền dậy non” những ẩn ngữ trong các câu chuyện cổ huyền thoại …

Tôi lãng du trong văn hóa Việt Nam, không chủ địch mà dấu chân đi tới theo nghiệp lực đời mình trên con đường khoa học nông nghiệp sinh thái, cặm cụi tìm tòi và cảm nhận Nha Trang và A. Yersin/ Báu vật nơi đất Việt/ A Na bà chúa Ngọc/ Châu Văn Tiếp Phú Yên / Cao Biền trong sử Việt/ Ông Rhodes chữ tiếng Việt / Sông Kỳ Lộ Phú Yên/… mà đặc biệt là Nha Trang và A. Yersin/ Báu vật nơi đất Việt/ đã góp phần liền mạch câu chuyện pho tượng Ngọc Quan Âm. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-dong-dao-cho-em/

Ngày mới Ngọc cho đời Đồng Nai đêm qua mưa. Tiếng mưa rả rích suốt từ khuya cho đến sáng. Ban mai trời hửng nắng. Tôi pha trà sớm nhớ bạn hiền và khởi đầu ngày mới bằng #cnm365 #cltvn 12 tháng 5. Mưa đều, thao thức việc Chọn giống sắn kháng CMD và xuống giống sắn vụ Hè. Ngắm ảnh Đường xuân đời quên tuổi, đọc lại Sắn Việt và Sắn Thái, đồng cảm sâu sắc với Sông Hậu Chiêm Lưu HuyBài thơ Viên đá Thời gian Chuyện đời Phan Chí Thắng. Tôi cặm cụi viết tiếp Pho tượng Ngọc Quan Âm thích hợp với điều kiện khả thi và hoàn cảnh cụ thể của chính mình hôm nay.

Hoàng Thành Trúc Lâm sáng
Thanh nhàn cùng tháng năm
Dựng nghiệp bền tâm đức
Yêu thương vững muôn năm
An lành phước lộc tho
Biết đủ duyên trời ban

Bài viết mới liên quan

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Việt Bắc nhớ Bác Hồ


duongxuan1

Việt Bắc Nhớ Bác Hồ. “Những gì tốt đẹp nhất phải được cảm nhận bằng trái tim”. Helen Keller đã nói vậy.  ‘Đường xuân’ là những điều tốt đẹp nhất mà tôi cảm nhận được bằng trái tim, trong đêm lạnh Về Việt Bắc nhớ Người. Nghiên cứu lịch sử là để nhận diện đúng dòng chủ lưu của vận hội mới. Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi. Dĩ bất biến ứng vạn biến, nhằm góp phần xây dựng đất nước phát triển mạnh mẽ, bền vững.

Ngày đầu đông năm xưa, tôi đã về Việt Bắc, sau thời gian VNCP & CIAT đồng chủ trì tổ chức các hội thảo sắn Quốc gia và Quốc tế ở Đại Học Thái Nguyên tại địa danh huyền thoại Yên Lãng Hồ Chí Minh mà tôi đã kể lại trong bài Thơ tình Hồ Núi Cốc . Thuở ấy VNCP & CIAT kết gắn thật tuyệt vời. Giáo sư Trần Ngọc Ngoạn, Giáo sư Trần Văn Minh, Phó Giáo sư Nguyễn Viết Hưng, Phó Giám đốc Trung tâm Cây Có Củ Trịnh Thị Phương Loan, … với ‘gia đình sắn VNCP đã chung sức cùng tôi với “Dr. CassavaSắn Việt Nam và Howeler đúc kết thành tựu và bài học sắn Việt Nam, làm được nhiều chuyện tử tế ở cả ba miền Nam Trung Bắc. Sau dịp ấy là thời chuyển mùa. Tôi đã từng thấm cái lạnh thấu xương của thời giao mùa trong chuyến khảo sát tạo hạt sắn lai tại chợ Đồn Bắc Kạn, Yên Lãng núi Hồng. Năm 2010 ra Đông Bắc, tôi đã thấm cái rét cắt da của đêm thiêng Yên Tử khi nửa đêm khởi hành từ chùa Hoa Yên đi bộ lên chùa Đồng. Đêm lạnh, tôi chứng ngộ được đức lớn của Trần Nhân Tông khi Người dấn thân từ bỏ ngôi vua lúc 35 tuổi lên tu hành thiền Trúc Lâm Yên Tử trải mười lăm năm để thống nhất các Thiền phái tồn tại trước đó và toàn bộ giáo hội Phật giáo đời Trần về một mối. Tôi cũng thấu hiểu, kính trọng và ngưỡng ngộ nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh trải mười lăm năm gian khổ ở chiến khu Việt Bắc với sáu năm gầy dựng Việt Minh (1941- 1945) và chín năm lãnh đạo chính phủ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). Những người trải tuổi cao và có đức hi sinh chịu khổ làm việc chí thiện càng thấu hiểu minh triết dấn thân Bình sinh Hồ Chí Minh; xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/viet-bac-nho-bac-ho & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ve-viet-bac-nho-nguoi

Về Việt Bắc nhớ Người

Đền thiêng trên Nghĩa Lĩnh.
Giếng ngọc dưới trời Nam. 
Chén cơm truyền con cháu. 
“Vạn cổ thử giang san” (*)

#VietnameseCassavaToday; Vietnamese cassava today; Lời Thầy dặn thung dung; Thăm Thầy Ngọc Phương Nam, Lên Việt Bắc điểm hẹn; Về Việt Bắc Nhớ Người https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-18-thang-10;

(*) Câu chuyện ngày hôm nay là tiếp nối chuyện cũ

Tôi viết “Đường xuân theo chân Bác“, “Về Việt Bắc nhớ Người” trong đêm lạnh nhớ Bác, tập hợp các ghi chép và suy ngẫm “Núi Tản Viên, Tam Đảo, Nham Biền”; “Vó ngựa trời Nam”, “Chuyện tình Hồ trên núi”; “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” (bài thơ kỳ lạ Tầm hữu vị ngộ – tìm bạn không gặp – của Bác ); “Hai bài thơ đồng dao của Bác”; “Bỗng nghe vần Thắng vút lên cao”; “Bình sinh Hồ Chí Minh” (quan hệ đến câu chuyện bức trướng của năm vị lão thành cách mạng Nga); “Kẻ phi thường trong thơ Bác Hồ”… Việt Bắc là tuổi trẻ và tình yêu đầu đời của tôi. Nơi đây khi tôi về thăm lại lần này là lúc tôi đã tự mình trải qua độ tuổi của Đức Nhân Tông và của Bác khi Người dấn thân vào nơi giá rét! Đêm lạnh cắt da, tôi nghĩ đến đức Nhân Tông, đến Bác đều về nơi hang lạnh. Lòng tôi bùi ngùi thương Người tuổi cao và thấm thía việc dấn thân làm người phúc hậu. Nhiều uẩn khúc lịch sử, thật giả chưa tường minh, nhưng tôi tin tưởng sâu sắc rằng, nghiên cứu lịch sử sẽ tìm tòi và thấu hiểu được sự minh triết sâu sắc kín đáo của Người, những lời dặn còn mãi với thời gian.

duongxuan2a

QUA ĐÈO CHỢT GẶP MAI ĐẦU SUỐI

“Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành”. Tôi biết bài thơ “Qua đèo chợt gặp mai đầu suối” của Bác Hồ đăng trên báo khoảng năm 1970 do một chuyện ngẫu nhiên tình cờ nên nhớ mãi. Bài thơ kỳ lạ vì ẩn chứa nhiều triết lý sâu sắc không dễ thấy, vì nó là thơ của Bác Hồ mà ít thấy sách báo nào nhắc đến cho đến xuân 2013 đã trãi hơn sáu mươi ba năm.

Thuở ấy, tôi mới mười bảy tuổi, đã cùng người anh trai ra thăm đèo Ngang. Chúng tôi vừa đi xe đạp vừa đi bộ từ chân núi lên đến đỉnh đèo. Gần cột mốc địa giới hai tỉnh trên đỉnh đường xuyên sơn, cạnh khe suối ven đỉnh dốc sườn đèo có cây mai rừng rất đẹp. Chúng tôi đang thưởng ngoạn thì chợt gặp xe của bộ trưởng Xuân Thủy và xe của ông Nguyễn Tư Thoan bí thư tỉnh ủy Quảng Bình vừa tới. Họ đã xuống xe ngắm nhìn trời, biển, hoa, núi và bộ trưởng Xuân Thuỷ bình bài thơ trên.

Bộ trưởng Xuân Thủy là nhà ngoại giao có kiến thức rộng, bạn thơ của Hồ Chí Minh, giỏi dịch thơ chữ Hán. Ông cũng là người đã dịch bài thơ “Nguyên tiêu” nổi tiếng, nên khi tôi tình cờ được nghe lời bình phẩm trực tiếp của ông về bài thơ trên thì tôi đã nhớ rất lâu. Tôi cũng hiểu nghĩa rõ ràng cụm từ “Trung Nam Hải” từ dịp ấy.

Ba mươi năm sau, khi anh Gia Dũng sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu bài thơ “Tìm bạn không gặp” trong tập thơ “Ngàn năm thương nhớ” tuyển thơ một nghìn năm Thăng Long, Hà Nội. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác do nhà Hán học nổi tiếng Phan Văn Các diễn nghĩa và dịch thơ. Nội dung tuy vẫn thế nhưng bản dịch mới, lời dịch sát nghĩa chữ Hán hơn so với bản tự dịch thoáng ý của chính Bác lại có khác MỘT chữ so với bài mà tôi được đọc và nghe bình trước đây. Đó là từ “nghìn dặm” được thay bằng từ “trăm dặm” (“bách lý tầm quân vị ngộ quân” thay vì “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”). Bản dịch mới có lời ghi chú, nghe nói là của Bác. Bài thơ viết năm 1950 nhưng xuất xứ và cảm xúc thực sự của Người khi thăng hoa bài thơ nổi tiếng này thì nay vẫn còn để ngỏ.

Bác ra nước ngoài từ đầu năm 1950 đến đầu tháng Tư mới về nước theo hồi ức “Chiến đấu trong vòng vây” của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Bác lúc đó đã sáu mươi tuổi, bí mật đi đến Bắc Kinh gặp chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông rồi đi luôn sang Matxcơva gặp đồng chí Stalin. Bác cũng đi tìm gặp đại tướng Trần Canh khi chuẩn bị chiến dịch Biên giới. Trong cơn lốc của các sự kiện, Bác khẳng định: “Tổng phản công của ta sẽ là một giai đoạn lâu dài. Rồi đây, có sự chi viện của Liên Xô và Trung Quốc về vật chất, vũ khí, trang bị, ta sẽ đỡ khó khăn hơn, nhưng giành được thắng lợi là phải do sức nỗ lực của chính bản thân ta quyết định”.

“Nghìn dặm” hay “trăm dặm”? “gặp bạn” hay “không gặp”? hoặc “gặp nhưng không gặp về cách làm”? Ngữ nghĩa của câu thơ “Bách lý tầm quân vị ngộ quân” khác hẳn với “thiên lý tầm quân vị ngộ quân”, đó là sự gặp gỡ một minh quân, một minh chủ, một chủ thuyết chứ không đơn giản là “Tìm bạn không gặp”. Dường như Bác đang đề cập một vấn đề rất lớn của định hướng chiến lược đối ngoại “phải biết tranh thủ thời cơ, tận dụng sự ủng hộ và chi viện quốc tế nhưng giành được thắng lợi là phải dựa vào sức mình là chính” . Nhiều sự kiện lịch sử hiện tại đã được giải mã nhưng còn nhiều ẩn ý sâu sắc trong thơ Bác cần được tiếp tục tìm hiểu, khám phá thêm. Những năm tháng khó khăn của cách mạng Việt Nam “chiến đấu trong vòng vây”; Những tổn thất và sai lầm trong cải cách ruộng đất do sự thúc ép từ phía Liên Xô và sự vận dụng không phù hợp kinh nghiệm của Trung Quốc; Quan hệ của nước nhỏ đối với các nước lớn. Nhiều điều tinh tế ẩn chứa trong thơ Bác.

Ý tứ trong bài thơ của Bác rất gần với với một bài thơ cổ của Trung Quốc thời nhà Tống: “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Bác Hồ cũng vượt vòng vây phong tỏa, chịu nhiều gian khổ suốt bốn tháng ròng để tìm sự ủng hộ quốc tế cho cách mạng Việt Nam đang “chiến đấu trong vòng vây”. Trên đường về, qua đèo, Bác chợt gặp cây mai đầu suối và Bác đã ngộ ra được những vấn đề sâu sắc của phương pháp cách mạng. Đối diện với mặt trời đỏ “đông phương hồng, mặt trời lên” là mặt TRĂNG hiền hoà (rằm xuân lồng lộng trăng soi) và gốc MAI vàng cổ thụ bên SUỐI nguồn tươi mát (bên suối một nhành mai). Trăng, suối, hoa mai là những cụm từ quan trọng trong thơ Bác. Nó là triết lý ứng xử tuyệt vời của một nước nhỏ đối với các nước lớn trong quan hệ quốc tế phức tạp. Trời càng sáng, trăng càng trong, nước càng mát, mai càng nở rộ.

Ngày xuân, hiểu sâu thêm một bài thơ hay của Bác và góp thêm một tản văn về trăng, suối nguồn, hoa mai. Học minh triết trong quan điểm chiến lược của Bác “dựa vào sức mình là chính đồng thời tranh thủ thời cơ và sự ủng hộ quốc tế”. Trăng, suối nguồn, hoa mai là biểu tượng và đối sách quốc gia mà Bác nhắn gửi. Đó là phong thái thung dung, điềm tĩnh, bản lĩnh gan góc bất khuất, dám giành độc lập, giữ độc lập tự do để mưu cầu hạnh phúc cho dân, đám đánh và biết đánh thắng.

duongxuan4

TÂM HỒN BÌNH DỊ CHÍ ANH MINH

“Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh / Khuất núi hồn THƠM quyện đất lành / Anh hùng HỒ dễ nên nghiệp ấy? / Tâm hồn bình dị CHÍ anh MINH”. Bài thơ tứ tuyệt này được thêu trên bức trướng do năm nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Anh Phan Chí Thắng đã gửi cho tôi tư liệu quý trên đây cuối tháng ba năm 2008 với lời nhắn: “Gửi Hoàng Kim. Cách đây mấy ngày, trong một cuộc tiếp xúc nhiều người, tôi vô tình được nói chuyện với anh H. – cháu nội người đỗ đầu khoa Hội cùng năm với cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Dì ruột của anh H lấy anh cả của ông Lê Đức Thọ. Anh H. kể là được nghe trực tiếp từ ông Lê Đức Thọ về bài tứ tuyệt được thêu trên trướng do 5 nhà cách mạng lão thành Nga gửi đến tang lễ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ nghe một lần mà anh H. thuộc lòng cho đến bây giờ, thật xứng danh cháu nội cụ Hội Nguyên. Tôi xin chép lại vào đây để Hoàng Kim tham khảo. Có vài điểm thắc mắc: 1. Làm sao mà các nhà cách mạng Nga lại làm được thơ tứ tuyệt? Hay là họ nhờ ai đó làm giúp theo ý họ? 2. Các chữ viết hoa trong bài tứ tuyệt được thêu chữ hoa, nghĩa là có dụng ý. Ba chữ là lấy từ trong “Hồ Chí Minh”. Còn chữ “Thơm” có phải đó cũng là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia? Hay là một tên gọi khác của Bác mà rất ít người biết? Sơ bộ như thế đã, các nhà nghiên cứu sẽ tìm câu trả lời.

“Điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam do đồng chí Lê Duẩn, Bí thư thứ nhất, đọc tại Lễ truy điệu trọng thể Hồ Chủ tịch, ngày 9 tháng 9 năm 1969” đã nhận định về Bác: Hồ Chủ Tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Thống nhất, là người cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta. Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ Tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta. “Thế giới còn đổi thay nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh sẽ sống mãi” đại tướng Võ Nguyên Giáp tâm đắc. Hồ Chí Minh là con người bình dị và quang minh lỗi lạc với tám chữ tâm niệm Bác đã mẫu mực thực hành suốt đời đó là “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”. Giáo sư Trần Văn Giàu đúc kết bảy phẩm chất cơ bản của Bác Hồ được con dân nước Việt và thế giới ngợi ca đối với “Nhân cách lớn của chủ tịch Hồ Chí Minh”: 1) Ưu tiên đạo đức; 2) Tận tụy quên mình; 3) Kiên trì bất khuất; 4) Khiêm tốn giản dị; 5) Hài hòa kết hợp; 6) Thương, quý người, nâng đỡ con người, thấu tình đạt lý; 7) Yêu thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên. Lệ thần Trần Trọng Kim có tác phẩm Một Cơn Gió Bụi và Lê Mai có bài viết Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh góp thêm tư liệu quý chân thực về trí tuệ bậc Thầy “anh hùng hồ dễ nên nghiệp ấy”.

“Tâm hồn bình dị chí anh minh” và “Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh” là hai câu thơ khái quát được nhân cách, bản lĩnh và tầm vóc của chủ tịch Hồ Chí Mính. Người chủ của bài thơ hay này phải là người hiểu được bình sinh của Bác đủ nhân trí dũng dám đánh và biết đánh thắng địch mạnh, dám đối diện mặt trời đỏ, hiểu được bản chất nhân văn của một tâm hồn bình dị chí anh minh và sành văn chương, khéo khái quát được thần thái của Bác trong vỏn vẹn bốn câu thơ. Manh mối đầu tiên trong logic của “thần thám Địch Nhân Kiệt” là vậy. Tôi ngờ rằng đây chỉ có thể là thơ của chính Bác, cũng có thể là thơ của ông Lê Đức Thọ đã khéo léo dàn dựng một cách tài tình. Ông Trường Chinh Sóng Hồng và Xuân Thủy cũng giỏi thơ, ông Phạm Văn Đồng giỏi văn chương nhưng không thể là tác giả. Ông Lê Đức Thọ là có thể vì bình sinh ông ưa làm Trần Thủ Độ, ông có chí lãnh tụ, từng muốn làm tổng bí thư, mưu sâu kế hiểm từng làm liệt vị tướng Giáp, khéo xuất hiện như các vị tướng cầm quân trong các chiến dịch lớn Mậu Thân, Hồ Chí Minh và chiến tranh biên giới Tây Nam, khéo lộ diện trong ngoại giao đánh đàm hai tay trường kỳ với Mỹ Thiệu tại Paris, ông là người sắp xếp nhân sự, cũng thích làm thơ và khéo dựng chuyện sâu xa… Giải mã câu chuyện do chính ông nêu ra kỳ bí như xem phim Võ Tắc Thiên cần đi từ chính những người trong cuộc biết rõ. Ngày xuân lưu lại điều này trong DẠY VÀ HỌC, DANH NHÂN VIỆT để tiếp tục nghiên cứu. Nhiều sự thật lịch sử cần đủ thông tin, đúng người, đúng việc, đúng liều lượng và đúng thời điểm. Tôi đã đưa bài thơ này lên trang đầu xuân mỗi năm suốt sáu năm qua để tìm thêm chỉ dấu của các bậc hiền minh nhằm sáng tỏ câu chuyện.

Bình sinh đầu ngẩng tới trời xanh! Hồ Chí Minh nghe nói cũng có thơ viết ở đền Trần trong đó có câu “Tôi bác xưa nay vẫn anh hùng” tự cho mình nối tiếp công việc tiền nhân của Trần Hưng Đạo. Người cũng đã dùng cụm từ “kẻ phi thường” thay cho cụm từ “bậc phi thường” khi nói về thân thế và sự quyền biến của Nguyễn Huệ và Lý Công Uẩn trong hai câu “Nguyễn Huệ là kẻ phi thường” và “Công Uẩn là kẻ phi thường” tại tác phẩm Lịch sử nước ta (Hồ Chí Minh tuyển tập tập 1, trang 596, 598), mặc dù Bác biết rất rõ cụm từ “bậc phi thường” vì Bác là bậc Thầy về chữ nghĩa và rất cẩn trọng ngôn ngữ nhưng Người vẫn viết vậy. Bác coi trọng lịch sử, đánh giá công bằng mà không rơi vào sự giáo điều mê tín bất cứ ai.

Báo cáo của Việt Nam gửi Quốc tế Cộng sản ngày 12 tháng 7 năm 1940 do Hồ Chí Minh sọạn thảo là cẩm nang đón trước thời cơ “nghìn năm có một” của Tổng khởi nghĩa tháng 8 và Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tài liệu tổng hợp, phân tích, đánh giá đầy đủ, toàn diện tình hình, sâu sắc hiếm thấy nhưng cực kỳ súc tích chỉ vắn tắt 12 trang. Đó là một trong số những thí dụ rõ nhất về thiên tài kiệt xuất của Hồ Chí Minh dám chớp thời cơ giành chính quyền và biết thắng. Hãy nghe Hồ Chí Minh phân tích tình thế và đưa ra mưu lược hành động thật quả quyết:

“Tóm lại, những điều kiện khách quan cho phép chúng tôi có hi vọng thành công. Song, lực lượng chủ quan- lực lượng của Đảng còn quá yếu. Như trên đã nói, một đảng mới mười tuổi lại trãi qua hai lần khủng bố lớn, số cán bộ có kinh nghiệm đấu tranh hiện còn đang rên xiết trong tù ngục, khiến đảng viên và quần chúng như “rắn mất đầu” không thể tận dụng cơ hội tốt “nghìn năm có một”. Chúng tôi liệu có khả năng làm thay đổi hoàn cảnh đó, khắc phục khó khăn đó, giúp Đảng hoàn thành sứ mạng lịch sử của nó hay không? Có. Chúng tôi nhất định không thể từ trong đánh ra. Chúng tôi chỉ có cách từ ngoài đánh vào. Nếu chúng tôi có được: 1) Tự do hành động ở biên giới; 2) Một ít súng đạn; 3) Một chút kinh phí; 4) Vài vị cố vấn thì chúng tôi nhất định có thể lập ra và phát triển một căn cứ địa chống Pháp, chống Nhật – đó là hi vọng thấp nhất. Nếu chúng tôi có thể mở rộng Mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức, có thể lợi dụng mâu thuận giữa các nước đế quốc thì tiền đồ tươi sáng là có thể nhìn thấy được. Tôi rất hi vọng các đồng chí giúp tôi nhanh chóng giải quyết vấn đề này. 12.7.40.” (Hồ Chí Minh Toàn tập t. 3 tr. 162-174).

Ngày nay nhìn lại, càng đọc càng thấm thía nhiều điều sâu sắc. Đầu xuân này chúng ta hãy nghe Lê Mai kể lại một trích đoạn trong “Chủ tịch Nước Hồ Chí Minh”:

Quốc Hội nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vào ngày 9. 11. 1946, đã thông qua bản Hiến pháp đầu tiên mà sự tiến bộ, mẫu mực, dân chủ của nó cho đến nay – không những làm chúng ta mà còn làm cả thế giới thán phục. Trong bản Hiến pháp dân chủ ấy, ngoài việc thiết kế một thiết chế chính trị mẫu mực, đã quy định quyền hạn của Chủ tịch Nước rất rõ ràng, đó là người thay mặt cho nước, giữ quyền Tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hoặc cách chức các tướng soái trong lục quân, hải quân, không quân, ký sắc lệnh bổ nhiệm Thủ tướng, ban bố các đạo luật, đặc xá, ký hiệp ước với các nước, tuyên chiến hay đình chiến …

Hồ Chí Minh là Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Dĩ nhiên, dấu ấn của Hồ Chí Minh hết sức đậm nét trong bản Hiến pháp đầu tiên. Sự thông minh xuất chúng, hiểu nhiều, biết rộng của Hồ Chí Minh đã làm Võ Nguyên Giáp – một người tài ba, một cộng sự rất gần gũi Hồ Chí Minh kinh ngạc. Ông kể, gần như làm bất cứ việc gì, ông đều thấy Hồ Chí Minh đã tiên liệu, suy nghĩ vấn đề đó từ rất lâu rồi. Bản Tuyên ngôn độc lập, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chỉ là vài dẫn chứng sinh động.

Đối với những tình huống đột xuất thì sao? Những ứng phó của Chủ tịch nước Cộng hòa non trẻ, trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, thù trong, giặc ngoài đầy rẫy càng làm chúng ta khâm phục.

Ngay sau cái Tết Bính Tuất năm 1946 – Tết độc lập đầu tiên sau tám mươi năm trời nô lệ, Hồ Chí Minh đã có một cuộc nói chuyện dài với tướng Raun Xalăng. Xalăng – một sỹ quan Pháp, người đã từng ăn cơm lam chấm mắm ngóe miền thượng nguồn, ăn mắm tôm vắt chanh ở miền xuôi của VN. Tướng Xalăng đang rất hung hăng, điều này dễ hiểu, vì bấy giờ, Pháp ỷ vào sức mạnh nên coi thường Chính phủ Hồ Chí Minh. Nhưng, ông ta có vẻ bối rối khi hiện ra trước mắt mình là một nhà hiền triết phương Đông với phong thái ung dung tự tại tỏa ra từ đôi mắt sáng, chòm râu thưa, mái tóc pha sương, nước da dãi dầu mưa nắng, một cốt cách thanh cao khắc khổ ẩn tàng sức mạnh siêu quần được dấu kín trong bộ quần áo kaki cổ đứng không cài cúc.

– Mời tướng quân xơi nước.

Tướng Xalăng nâng chén nước lên theo lời mời của Hồ Chí Minh và nói:

– Thưa ngài Hồ Chí Minh…

Lập tức, Hồ Chí Minh ngắt lời ông ta:

– Tôi đã mời “tướng quân” xơi nước chứ tôi không mời “ngài” Raun Xalăng…

Raun Xalăng mất chủ động, lúng túng xin lỗi, mặc dù dụng ý của ông ta rất rõ ràng: không công nhận chức Chủ tịch của Hồ Chí Minh, cũng tức là không công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Sau những lời xã giao, thăm hỏi, trao đổi về tình hình chung, bỗng Raun Xalăng chuyển câu chuyện. Ông ta nói:

– Chủ tịch thử nghĩ xem, nên để chúng tôi khôi phục trật tự ở nước này, vì chúng tôi đủ lực lượng và rất nhiều phương tiện. Theo ý tôi, nếu được như vậy đất nước này sẽ biết ơn Chủ tịch, vì Chủ tịch là người đứng đầu Chính phủ có uy tín tuyệt đối với nhân dân. Nếu Chủ tịch để chúng tôi đưa quân vào đây không gặp trở ngại nào thì đó là sự chứng minh trước thế giới Chủ tịch biết kiềm chế quân đội của mình và điều đó thể hiện uy quyền của Chủ tịch là vô song.

Phải công nhận lời nói của Xalăng rất khôn khéo mà hiểm độc. Hồ Chí Minh bình thản chế thêm nước trà vào chén mời Xalăng:

– Tướng quân uống nước đi. Hút tiếp một hơi thuốc lá thơm, giọng nói trầm hùng của Hồ Chí Minh phắt căng lên:

– Tôi không thể làm như lời tướng quân, nếu làm như vậy, tôi sẽ là kẻ phản quốc. Tướng quân nên nhớ rằng, chúng tôi yêu nước Pháp, nhưng không muốn làm nô lệ. Nước Pháp có binh hùng, có nhiều tướng giỏi, nhiều vũ khí tối tân. Một Pháp có thể giết 10 VN, 10 VN có thể chỉ diệt được một Pháp nhưng toàn dân VN đều một lòng kháng chiến chống Pháp.

– Chúng tôi rất mạnh. Cuộc đổ bộ của chúng tôi đã sẵn sàng. Vì sao Chủ tịch không chịu thừa nhận điều hiển nhiên ấy?

Giọng Hồ Chí Minh như có lửa:

– Nếu quân Pháp lại đổ bộ đến đây, chúng tôi không chặn đứng được ngay, nhưng sẽ đổ máu, những người dân Pháp sẽ bị chết. Đó là điều bất hạnh cho cả hai bên. Chúng tôi không bao giờ mong điều đó xảy ra. Nhưng chúng tôi không chịu làm nô lệ một lần nữa.

Chữ “THƠM” và chữ “HỒ” trong bài thơ tứ tuyệt giúp ta liên tưởng Nguyễn Huệ (Hồ THƠM) và Nguyễn Ái Quốc (HỒ Chí Minh). Cụ Hồ Sĩ Tạo (ông nội ruột của Hồ Chí Minh) với cụ Hồ Phi Phúc (cha của Nguyễn Huệ) là quan hệ dòng tộc. Có giả thuyết cho rằng tổ tiên nhà Tây Sơn vốn họ Hồ ở làng Hương Cái, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Họ theo chân chúa Nguyễn vào lập nghiệp miền Nam khi chúa Nguyễn vượt Lũy Thầy đánh ra đất Lê – Trịnh tới Nghệ An (năm 1655). Ông cố của Nguyễn Huệ tên là Hồ Phi Long (vào giúp việc cho nhà họ Đinh ở thôn Bằng Chân, huyện Tuy Viễn, tức An Nhơn) cưới vợ họ Đinh và sinh được một trai tên là Hồ Phi Tiễn. Hồ Phi Tiễn không theo việc nông mà bỏ đi buôn trầu ở ấp Tây Sơn, cưới vợ và định cư tại đó. Vợ của Hồ Phi Tiễn là Nguyễn Thị Đồng, con gái duy nhất của một phú thương đất Phú Lạc, do đó họ đổi họ của con cái mình từ họ Hồ sang họ Nguyễn của mẹ. Người con là Nguyễn Phi Phúc cũng chuyên nghề buôn trầu và làm ăn phát đạt. Nguyễn Phi Phúc có 8 người con, trong đó có ba người con trai: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Nguyễn Huệ sinh năm 1753 còn có tên là Hồ Thơm hay Quang Bình, Văn Huệ. Cụ Hồ rất coi trọng lịch sử nên sự liên hệ giữa câu chuyện có thật trên đây và bài thơ có thể là một giả thuyết. Chữ “Thơm” cũng có thể là tên hoạt động của Bác Hồ trong thời gian công tác cùng với 5 nhà cách mạng Nga kia, hay là một tên gọi khác của Bác hoặc cũng có thể là người yêu thương của Bác như vĩa than núi Hồng của tình yêu Yên Lãng.

duongxuan2

VỀ VIỆT BẮC ĐÊM LẠNH NHỚ BÁC

“Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân”. Rét đài là đợt rét cho cây trổ hoa; rét lộc là đợt rét khi cây nẩy mầm non; rét nàng Bân là đợt rét muộn nàng Bân may áo lạnh cho chồng. Tôi về Việt Bắc tháng giêng rét đài lúc trời rét đậm, vận nước vần vũ với cái lạnh thấm thía đến thấu xương của thời giao mùa. Tôi đi mang mang giữa vùng núi cao mà lòng bâng khuâng nhớ kỹ niệm cũ. Nơi đây là tình yêu đầu đời và tuổi trẻ của tôi. Nay về Việt Bắc khi tôi trạc tuổi Bác của các năm đầu gian khổ kháng chiến, đêm lạnh nhớ Bác và thương sự dấn thân vì nước của Người.

Việt Bắc gồm sáu tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên (gọi tắt là Cao – Bắc – Lạng – Hà- Tuyên Thái). Đó là căn cứ địa đầu não của Đảng Lao Động Việt Nam trong thời trước khởi nghĩa (1941-1945) và là nơi trú đóng của chính phủ Việt Minh thời kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954).

Cao Bằng có hang Pác Bó (Cốc Bó) tiếng Tày nghĩa là “đầu nguồn” được chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm nơi ở khi Bác về nước lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền. Trước cửa hang có một con suối lớn chảy ngầm từ trong núi đá ra, nguồn của con suối là bên phía Bắc của ngọn núi này và thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Bác Hồ đã đặt tên suối Pác Bó là suối Lê Nin và ngọn núi cao kia là núi Các Mác.

ben-suoi-mot_nhanh_maiCử đầu hồng nhật cận. Đối ngạn nhất chi mai (Ngẩng đầu mặt trời đỏ, Bên suối một nhành mai) là hai câu thơ của Bác Hồ trong bài “Lên núi” làm ở Lũng Dẻ năm 1942, mấy tháng trước khi lên đường đi Trung Quốc với danh nghĩa đại biểu của Việt Nam Độc lập đồng minh và Phân bộ quốc tế phản xâm lược của Việt Nam ẩn chứa nhiều điều sâu sắc. (Mai, ảnh Phan Chí Thắng).

duongxuan5

Trong chiến tranh biên giới Việt-Trung năm 1979, quân Trung Quốc đã cho nổ mìn phá hoại hang Cốc Pó định cắt đứt mạch nguồn này nhưng núi cao, suối lớn, mạch vững nên chỉ có thể chặn không có thể hủy. Người đời sau sẽ bàn sâu hơn về đúng sai của mỗi bên nhưng thời Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh rõ ràng là tình bạn hữu nghị tin cậy và không hề xẩy ra sự cố nào. Ngày nay hang Cốc Pó đã được khôi phục một phần để phục vụ khách tham quan. Cao Bằng là đất đầu nguồn của dòng Bách Việt (bộ tẩu) đi về phương Nam “tẩu vi thượng sách”, né địch mạnh để dựng nghiệp lớn. Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà tiên tri, nhà giáo, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê – Mạc. Lúc nhà Mạc sắp mất sai người đến hỏi ông. Ông khuyên vua tôi nhà Mạc “Cao Bằng tuy thiển, khả diên sổ thể” (Cao Bằng tuy nhỏ, nhưng có thể giữ được). Nhà Mạc theo lời ông và giữ được đất Cao Bằng gần 80 năm nữa.

Bắc Kạn là tỉnh vùng núi cao, có địa hình phức tạp, cơ sở vật chất và kinh tế chưa phát triển, nơi “Việt Bắc cho ta vay địa thế”(1), có hồ Ba Bể một trong 20 hồ nước ngọt đặc biệt của thế giới cần được bảo vệ và nằm trong vườn quốc gia Ba Bể, được công nhận là khu du lịch quốc gia Việt Nam và Vườn di sản ASEAN. Đó cũng là nơi có căn cứ địa cách mạng ATK Chợ Đồn nổi tiếng, một trong những khu căn cứ của Hồ Chí Minh và các cán bộ cấp cao của Đảng Lao Động Việt Nam cùng các nhân sĩ trong chính phủ kháng chiến của cụ Hồ, nơi mà hồn thiêng của cụ Phán Men Ứng Hòe Nguyễn Văn Tố, Chủ tịch Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa bị giặc Pháp giết hại ở rừng thiêng Việt Bắc đến nay vẫn chưa tìm được xác (2).

Lạng Sơn là cửa ngõ quan trọng bậc nhất của phía Bắc, nơi hiện có hai cửa khẩu quốc tế, bốn cửa khẩu quốc gia và bảy chợ biên giới Việt Trung, nơi đồi núi chiếm hơn 80% diện tích cả tỉnh và có nhiều thắng cảnh nổi tiếng Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa/ có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh, nơi có nhiều dòng sông, ấn tượng nhất là sông Thương, sông Kỳ Cùng, qua sông Thương gửi về bến nhớ tôi nhiều năm đóng quân với bao kỷ niệm (3).

Tuyên Quang có khu di tích văn hóa, lịch sử và sinh thái Quốc gia Tân Trào, Địa bàn chính tại xã Tân Trào trong thung lũng nhỏ ở Đông Bắc huyện Sơn Dương được bao bọc bởi núi Hồng ở phía Đông, núi Thoa, ngòi Thia ở phía Nam, núi Bòng ở phía Tây. Đây là tâm điểm của thủ đô kháng chiến chín năm, địa chỉ đến của những chuyến du lịch về nguồn. Đất và người Tuyên Quang có rất nhiều điều cần nghiên cứu luận bàn. Thái Nguyên là tỉnh trọng điểm phía Bắc Hà Nội về quốc phòng – kinh tế – xã hội và đào tạo nguồn nhân lực. Đây là vùng đất địa linh của tam giác châu giữa lòng của vòng cung Đông Triều, trường thành chắn Bắc Đây là vùng thiên nhiên trong lành, suối nguồn tươi trẻ, lưu dấu tích anh hùng, mỹ nhân trong vầng trăng, bóng nước giữa rừng Hồ trên núi. nơi có núi Cốc, sông Công, hồ núi Cốc – vịnh Hạ Long, Hồ trên núi – với diện tích mặt hồ khoảng 25 km2. Đền Hồ Chí Minh trên rừng Yên Lãng, đỉnh đèo De dưới là mỏ than núi Hồng giữ ngọn lửa thiêng, vùng huyền thoại chuyện tình yêu thương mà tôi đang hết lòng lưu giữ huyền thoại cũ và mới. Đảo Cái lưu những cổ vật đặc biệt quý hiếm về Chùa Vàng và đền bà chúa Thượng Ngàn nổi tiếng.

Hà Giang là một thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam. Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Bắc, Hà Giang giáp châu tự trị dân tộc Choang và Miêu Văn Sơn thuộc tỉnh Vân Nam và địa cấp thị Bách Sắc thuộc tỉnh Quảng Tây của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Tôi muốn nhấn mạnh điều này để thấy chủ tịch Hồ Chí Minh tinh tế đến ngần nào khi xác định Việt Bắc trong địa giới hành chính với tư cách là một là một cấp hành chính. Hà Giang nằm ở cực Bắc của Việt Nam, tỉnh này có nhiều ngọn núi đá cao và sông suối. Địa hình của tỉnh Hà Giang khá phức tạp, có thể chia làm 3 vùng. Vùng cao núi đá phía bắc nằm sát chí tuyến bắc, có độ dốc khá lớn, thung lũng và sông suối bị chia cắt nhiều. Nằm trong vùng khí hậu cận nhiệt đới ẩm nhưng do địa hình cao nên khí hậu Hà Giang mang nhiều sắc thái ôn đới. Vùng cao núi đất phía tây thuộc khối núi thượng nguồn sông Chảy, sườn núi dốc, đèo cao, thung lũng và lòng suối hẹp.Vùng thấp trong tỉnh gồm vùng đồi núi, thung lũng sông Lô và Thành phố Hà Giang. Hà Giang có nhiều núi non hùng vĩ, có đỉnh Tây Côn Lĩnh (2419 m) là cao nhất làm ta nhớ đến bài thơ của Hồ Chí Minh “Bồi hồi dạo bước Tây Phong Lĩnh/trông lại trời Nam nhớ bạn xưa”.

Sáu tỉnh Cao Bắc Lạng Hà Tuyên Thái là bài học lớn nhưng tiếc chưa có tác phẩm địa chí lịch sử văn hóa Việt Bắc nào xứng tầm với vùng này.

Liên khu Việt Bắc thời kháng chiến chống thực dân Pháp gồm 17 tỉnh : Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lào Cai, Yên Bái, Sơn La, Lai Châu, Bắc Giang, Bắc Ninh, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Quảng Yên, Hải Ninh, Đặc khu Hồng Gai và huyện Mai Đà của tỉnh Hòa Bình. Liên khu Việt Bắc là địa thế chiến lược lui có thể thủ, tiến có thể công, là vùng đất địa linh nhân kiệt. Tam giác châu Bắc Bộ tâm điểm Hà Nội được bảo vệ bởi hai dãy núi: Đông Bắc là dải Tam Đảo với 99 ngọn Nham Biền chạy xuống Đông Triều có non thiêng Trúc Lâm Yên Tử oai trấn Đông Bắc; Tây Nam là dải Tản Viên nối 99 ngọn núi hùng vĩ chạy dọc sông Đáy tới Ninh Bình kết nối Trường Sơn xương sống của đất Việt tại vùng Thần Phù- Nga Sơn với câu ca dao cổ nổi tiếng “Lênh đênh qua cửa Thần Phù/ Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm” (4). Việt Bắc là vùng đất đứng chân mở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà với nhãn quan thiên tài, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 127-SL ngày 4-11-1949 thiết lập Liên khu Việt Bắc là cấp hành chính, trên cơ sở hợp nhất Liên khu 1 và Liên khu 10. Từ năm 1949 đến năm 1954, Thượng tướng Chu Văn Tấn làm Khu trưởng, Bí thư khu ủy, Chánh án Tòa án Quân sự, Chủ tịch Ủy ban kháng chiến hành chính. Từ năm 1954 đến cuối năm 1956, ông làm Tư lệnh kiêm Chính ủy, Bí thư Quân khu ủy Liên khu Việt Bắc. Khi vùng Tây Bắc được giải phóng, khu tự trị Tây Bắc được thành lập theo Sắc lệnh số 134-SL của Chủ tịch Chính phủ ngày 28-1-1953, gồm bốn tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái và Sơn La tách khỏi Liên khu Việt Bắc và khu tự trị Việt Bắc được thành lập ngày 1-7-1956 gồm sáu tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên. Sau này những nhà địa lý lịch sử văn hóa chắc chắn sẽ còn quay lại nhiều lần với quyết sách của chủ tịch Hồ Chí Minh. Nhưng điều rất rõ ràng là khu tự trị Việt Bắc và khu tự trị Tây Bắc là hai khu vực có nhiều dân tộc thiểu số sinh sống, cần có những chính sách đối xử và ưu tiên phát triển riêng phù hợp cho mỗi vùng.

Đêm lạnh ở Việt Bắc tôi thấm thía nhất về Bác ba điều: Thứ nhất là bộ đội cụ Hồ, thứ nhì là trọng dụng hiền tài, thứ ba là tiên liệu và quyền biến. Bác xây dựng được một đội quân cách mạng “bộ đội cụ Hồ” thực sự được dân tin yêu quý trọng. Nhiều câu chuyện cảm động mà anh Phạm Hồng nay 85 tuổi, người có 5 cha con ra trận với bài thơ “Mừng tuổi 80 năm 2008” (3) xúc động giản dị như người lính Nguyên Phong của đức Nhân Tông xưa. Bác Hồ coi trọng hiền tài và hiền tài không phụ Bác. Kẻ sĩ chết cho người tri kỷ . Bao tấm gương sáng nhân sĩ hết lòng vì nước và vì cảm tấm lòng tri ngộ của Bác mà đã ra sức chung tay gánh vác việc nước trong thời buổi gian nan. Cả một trời sao nhân sĩ chói lọi trong thời đại Hồ Chí Minh như Võ Nguyên Giáp, Trần Văn Giàu, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Tôn Thất Tùng, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Văn Tố, Đặng Văn Ngữ, Đặng Thái Mai, Nguyễn Lân,…. Tôi trích bài viết nghĩa cử của cụ Hồ khóc cụ Nguyễn Văn Tố (2) người bị Pháp giết tại Bắc Kạn để thấy Bác đối với trí thức và trí thức đối với Bác. Việc tiên liệu và quyền biến của Bác đã có quá nhiều tư liệu. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ của chủ nghĩa Mác Lê Nin với sự chắt lọc tinh hoa từ Tôn Dật Tiên qua ba tiêu ngữ ‘Độc lập, Tự do, Hạnh phúc’. Sự vận dụng những nguyên lý phổ quát trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cùng với những vận dụng sáng tạo mưu lược, kế sách dựng nước, giữ nước của Việt Nam phù hợp với điều kiện cụ thể của chính dân tộc mình thể hiện đậm nét nhất qua tên Nước và tên Đảng. Bác rất coi trọng thực tiễn, coi trọng đại đoàn kết dân tộc, giỏi tiên liệu và quyền biến “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Về nhân cách và phẩm chất của người cán bộ cách mạng, Bác là tấm gương thực hành suốt đời của tám chữ: “Cần kiệm liêm chính chí công vô tư” trao lại cho đời sau. Bác viết: “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc. Người có bốn đức: Cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một mùa thì không thành trời. Thiếu một phương thì không thành đất. Thiếu một đức thì không thành người”. “Cũng như sông có nguồn thì mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân“.

Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác. “Nếu nước được độc lập mà nhân dân không được hưởng Hạnh phúc, Tự do thì Độc lập cũng không có nghĩa lý gì” (Hồ Chí Minh). Việt Bắc, Tây Bắc, Đông Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ là năm vùng đất trấn biên, vừa là phên dậu, vừa là yết hầu của Tổ quốc. Cuộc sống người dân ở đó, sau sáu mươi năm giải phóng Thủ Đô và gần bốn mươi năm sau Việt Nam thống nhất tuy đã đổi mới nhiều nhưng gian khó, tiêu cực vẫn còn nhiều lắm. Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, di nguyện của Người để lại trong di chúc lịch sử “Công việc trên đây là rất to lớn, nặng nề, và phức tạp, mà cũng là rất vẻ vang. Đây là một cuộc chiến đấu chống lại những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Để giành lấy thắng lợi trong cuộc chiến đấu khổng lồ này cần phải động viên toàn dân, tổ chức và giáo dục toàn dân, dựa vào lực lượng vĩ đại của toàn dân.” (5)

Năm nay nước ta có những vận hội mới nào? Tùy cơ, tùy vận, tùy thiên mệnh, tùy thời, tùy thế, lại tùy nghi. Dĩ bất biến ứng vạn biến.

Hoàng Kim
(Bài viết được hiệu đính theo bản gốc ‘Về Việt Bắc đêm lạnh nhớ Bác‘ đăng tại http://hoangkimlong.blogspot.com/2013/02/ve-viet-bac-em-lanh-nho-bac.html)

Lời cám ơn

Khi viết tản văn này, tôi được chính ủy Phạm Hồng, sư trưởng Hoàng Trung Trực, đại tá nhà văn Bùi Văn Bồng bổ sung tư liệu, hình ảnh và thẩm định, trao đổi, đóng góp nhiều ý kiến sâu sắc.Nhà thơ Gia Dũng gửi bài thơ Việt Bắc của Trần Dần với những câu chuyện lịch sử không quên;, Chính ủy Phạm Hồng có bức thư và bài thơ xúc động lưu dấu ký ức E568, F325, F356, dưới đây. Đại tá Bùi Văn Bồng đã đăng bài trên trang do anh chủ bút, Ngày nay anh Phạm Hồng, Gia Dũng, Bùi Văn Bồng đã khuất. Bài viết này lưu dấu ghi ơn.

Tài liệu dẫn

Việt Bắc
Thơ » Việt Nam » Hiện đại » Tố Hữu » Việt Bắc (1954)

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn?


Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ, bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân ly
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…

Mình đi, có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù?
Mình về, có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai?
Mình về, rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già.
Mình đi, có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về, còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa?


– Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu…

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.
Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi…

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng.
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô.
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Ta về, mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hoà bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây.
Núi giăng thành luỹ sắt dày
Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng.
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao – Lạng, nhớ sang Nhị Hà…
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng, bạn cùng mũ nan.
Dân công đỏ đuốc từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay.
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp, An Khê
Vui lên Việt Bắc, đèo De, núi Hồng.

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang.
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động, giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu…

Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền.
Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cách mạng dựng nên Cộng hoà
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.

Nước trôi nước có về nguồn
Mây đi mây có cùng non trở về?
Mình về, ta gửi về quê
Thuyền nâu trâu mộng với bè nứa mai
Nâu này nhuộm áo không phai
Cho lòng thêm đậm, cho ai nhớ mình.
Trâu về, xanh lại Thái Bình
Nứa mai gài chặt mối tình ngược xuôi.


– Nước trôi, lòng suối chẳng trôi
Mây đi mây vẫn nhớ hồi về non
Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn
Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà.
Nứa mai mình gửi quê nhà
Nước non đâu cũng là ta với mình.
Thái Bình đồng lại tươi xanh
Phên nhà lại ấm, mái đình lại vui…

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao, còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông, còn nhớ bản làng
Sáng đèn, còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi, ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?


– Đường về, đây đó gần thôi!
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao, chẳng khuất non xanh
Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường.
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về.
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy, bốn bề lưới giăng.
Than Phấn Mễ, thiếc Cao Bằng
Phố phường như nấm như măng giữa trời.
Mái trường ngói mới đỏ tươi
Chợ vui trăm nẻo về khơi luồng hàng
Muối Thái Bình ngược Hà Giang
Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh.
Ai về mua vại Hương Canh
Ai lên mình gửi cho anh với nàng
Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng
Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông
Áo em thêu chỉ biếc hồng
Mùa xuân ngày hội lùng tùng thêm tươi
Còn non, còn nước, còn trời
Bác Hồ thêm khoẻ, cuộc đời càng vui!

Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ Người
Nhớ Ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, đẹp tươi lạ thường!
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi, rừng núi trông theo bóng Người…


– Lòng ta ơn Đảng đời đời
Ngược xuôi, đôi mặt một lời song song.
Ngàn năm xưa, nước non Hồng
Còn đây, ơn Đảng nối dòng dài lâu
Ngàn năm non nước mai sau
Đời đời ơn Đảng càng sâu càng nồng.

Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé, hát cùng Thủ đô.


10-1954

Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc thắng lợi, tháng 7-1954, Hiệp định Genever về Đông Dương được kí kết. Hoà bình lập lại, miền Bắc nước ta được giải phóng và bắt tay vào sự nghiệp xây dựng cuộc sống mới. Một trang sử mới của đất nước được mở ra. Tháng 10-1954, những người kháng chiến từ cân cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tính lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ Việt Bắc. Bài thơ có hai phần: phần đầu tái hiện những kỉ niệm cách mạng và kháng chiến, phần sau gợi viễn cảnh tươi sáng của đất nước và ngợi ca công ơn của Đảng, Bác Hồ đối với dân tộc.

Trích đoạn bài thơ này từ đầu tới câu “Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” được sử dụng trong các chương trình SGK Văn học 12 giai đoạn 1990-2006, SGK Ngữ văn 12 từ 2007.

Thi Viện Đào Trung Kiên
Nguồn:
1. Tố Hữu, Việt Bắc, NXB Văn học, 1962
2. Thơ Tố Hữu, NXB Giáo dục, 2003

BÀI THƠ VIỆT BẮC
Trần Dần

Ở đây ta dấy nghiệp nhọc nhằn
Hai tay trắng mưu cơ tần tảo
Mới làm nên đất nước bây giờ.

Ở đây muối mặn ta kiêng
thương xót đời con khát nước
Tương lai ta thắt bụng vì mày!

(chương 1)

Đây
Việt Bắc!
Sông Lô
nước xanh
tròng trành
mảnh nguyệt
Bình Ca
sương xuống
lạc
con đò
Đáy dạ thời gian
còn đọng
những tên
Như
Nà Phạc
Phủ Thông
Đèo Thùng
Khau Vác
Tôi nhớ
đồn Róm khi xưa
Nơi ta
ngã xuống
Trời sao ấp ủ …
Đây
khe suối cạn
nơi bạn ta nằm
Chắc hẵn
khu ATK
beo gầm cỏ rậm
Bản xưa
chim chóc
phục hồi chưa?
Người khách đến!
thuyền lên
bến lạ
Mãi vui
sương núi
trăng ghềnh
Tìm đâu
dấu vết ngày xưa?
Đâu
bom đạn tội tình
thuở ấy?
Rừng chẳng nói
lá rơi
vàng võ!
Thác bạc phơ đầu
mài gọt
đá xanh!
Nhưng hãy tin
nhiều đêm
bên bếp lửa,
Lũ trẻ đầu xanh
nghe
chuyện người xưa,
Cũng
mê mãi
như ta
nghe cổ tích …
Ở đâu
ta đã long đong
chín mùa xuân xạm lửa
Đạn
như ruồi
bâu kín
gót chân đi!
Ở đâu
lên Bắc
lại
về Đông
Vò võ
chân trời
khẩu súng.
Mỗi đêm
từ biệt
một quê hương!
Ở đây
ta dấy nghiệp
nhọc nhằn
Hai tay trắng
mưu cơ
tần tảo
Mới làm nên
đất nước bây giờ
Chính
chiếc nôi Việt Bắc
bế bồng ta
Qua
tất cả
tháng năm đầy lửa
Nuôi ta
nuôi cách mạng
lớn khôn
Ta bầu bạn
củ khoai môn
nương sắn
Bạn
con chim mất ngủ
rừng già
Bạn
sông Đà
sông Mã
chở đầy sao
Bạn hang núi
lá vàng rơi
khắc khoải
Ở đây
muối mặn ta kiêng
thương xót
đời con khát nước
Tương lai
ta thắt bụng
vì mày!
Ta đã nhịn
như
người lính nhịn.
Nhịn mủa xuân
lại đến
nhịn mùa đông
Nhịn điếu thuốc
nhịn từng vuông vải
Nhịn no
nhịn ấm
nhịn tình yêu!
Ở đây
mây sớm
quẩn
sương chiều
Đầu bản
hùm kêu
khản giọng
Đạn bom
chầu chực
bốn bên nhà
Ta sống
giữa
bản hùng ca nguy hiểm.
Ở đây
manh áo vải
chung nhau.
Giấc ngủ
cùng chung
chiếu đất
Hành quân
chung
khói bụi đường trường
Con muỗi độc
chung nhau cơn sốt.
Chiến trường
chung
dầu dãi đạn bom
Tới khi ngã
lại chung nhau
đất mẹ
Hãy chia sẻ cho nhau
gió bấc!
Chia
mưa phùn
nước lũ
cơm thiu
Để đến lúc
mắc trùng vây địch
Lại chia nhau
những thỏi đạn
cuối cùng
Ở đây
ta mắc nợ núi rừng
Một món nợ
khó bề trang trãi
Việt Bắc
cho ta vay
địa thế !
Vay từ
bó của
nắm tên
Vay từ
những hang sâu
núi hiểm
Cả
trám bùi
măng đắng
đã nuôi ta
Ta mắc nợ
những rừng sim bát ngát
Nợ
bản Mường heo hút
chiều sương
Nợ
củ khoai môn
Nợ
chim muông
nương rẫy
Nợ
tre vầu
bưng bít
rừng sâu.
Nợ
con suối
dù trong
dù đục
Nợ
những người
đã ngã
không tên
Ôi
thế kỷ
muôn quên
ngàn nhớ!
Nợ này
đâu dễ trả
mà quên!
Đi !
Tất cả!
Dù quen tay vỗ nợ
Cũng chớ bao giờ
vỗ nợ
NHÂN DÂN!

Trần Dần
Thơ Việt Nam 1945-2000, Gia Dũng sưu tầm biên soạn tuyển chọn Nhà Xuất bản Lao Động 2001, trang 233-243

CỤ PHÁN MEN ỨNG HÒE NGUYỄN VĂN TỐ

“Cách mạng tháng 8 mới thành công, bộn bề khó khăn, thù trong giặc ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh và cụ Nguyễn Văn Tố mới có dịp gặp nhau. Mến vì đức, trọng vì tài, Bác Hồ mời cụ Tố ra giúp nước. 2 triệu người chết đói năm Ất Dậu đang đè nặng lên xã hội.

Được Bác Hồ phân công, cụ Tố sẵn lòng nhận nhiệm vụ là Bộ trưởng Bộ Cứu tế – xã hội (nay là Bộ LĐ-TB-XH) trong Chính phủ Hồ Chí Minh. Sau tổng tuyển cử đầu tiên, cụ trúng cử đại biểu Quốc hội với tư cách là đại biểu tỉnh Nam Định. Trong cuộc họp Quốc hội sau đó, cụ đươc bầu là Trưởng ban thường trực Quốc hội (ngày nay là Chủ tịch Quốc hội) khóa 1 và cho đến ngày 8/11/1946, cụ Bùi Bằng Đoàn thay thế. Ngày 3/11/1946, cụ lại giữ chức Bộ trưởng không bộ trong Chính phủ.

Giặc Pháp trở lại xâm lược nước ta, ngày 7/10/1947, chúng cho quân nhảy dù xuống Bắc Kạn âm mưu tiêu diệt đầu não kháng chiến, cụ bị chúng bắt và giết: ” Thấy cụ là người chững chạc, nói tiếng Pháp yêu cầu chấm dứt chiến tranh xâm lược. Lúc biết đó không phải là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng đã bắn chết khi ông già tìm cách chạy thoát. Đó là cụ Trưởng ban thường trực quốc hội, nhân sĩ yêu nước tâm huyết và có uy tín. Cụ Nguyễn Văn Tố hy sinh là một tổn thất lớn cho ta” ( Hồi ký “Chiến đấu trong vòng vây” – Võ Nguyên Giáp).

Sang năm 1948, sau khi đánh tan âm mưu tấn công của thực dân Pháp Nhà nước ta đã tổ chức lễ truy điệu cụ Tố. Trong bài truy điệu, Hồ Chủ tịch đã dành những lời trân trọng, thống thiết: “…Nhớ cụ xưa/ Văn chương thuần túy, học vấn cao sâu/ Thái độ hiền từ, tính tình thanh khiết/ Mở mang văn hóa, cụ dốc một lòng/ Phú quý công danh, cụ nào có thiết”… “Chúng tra tấn cực kỳ dã man, tàn khốc/ Cụ trả lời chúng bằng một nụ cười oanh liệt/ Chúng làm hại cụ, lịch sử Pháp muôn đời thêm một vết xấu xa…/Cụ dù hy sinh,tinh thần cụ ngàn thu sẽ vẻ vang bất diệt/ “Chính phủ khôn xiết buồn rầu, đồng bào khôn xiết nỗi lòng thương tiếc”.

Nói đến nhà trí thức lớn của đất nước, nhà bác học “thông kim bác cổ” (lời Giáo sư Nguyên Xuân), “nhà sử học anh hùng” (GS Hà Văn Tấn), nói đến vị liệt sỹ Bộ trưởng đầu tiên đã ngã xuống vì nền độc lập còn non trẻ của nước nhà, ai cũng thấy cuộc đời và sự nghiệp của cụ thật đáng khâm phục.

Tuy nhiên, đến ngày nay, ai cũng xót thương cho linh hồn của cụ, vẫn còn lang thang nơi rừng thiêng của tỉnh Bắc Kạn, cám cảnh không có nơi cho đồng bào cả nước đến cắm nén nhang thơm viếng cụ.

(Nguồn:Bee.net)

QUA SÔNG THƯƠNG GỬI VỀ BẾN NHỚ

Tôi về Việt Bắc nhiều lần. Lần đầu là đợt tuyển quân ở Cao Bằng, Lạng Sơn năm 1972. Đơn vị chúng tôi là trung đoàn 568 đóng tại Lục Ngạn, Hà Bắc chuyên đào tạo quân tăng cường của sư đoàn 325 B đóng ở Tiên Yên, Quảng Ninh. Trước đó, tôi gia nhập quân đội tháng 9 năm 1971 ở Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc cấp tốc huấn luyện ba tháng và hành quân ngay vào Nam qua sông Thương gửi về bến nhớ tham gia chiến dịch Quảng Trị:“Ta lại hành quân qua sông Thương/ Một đêm vào trận tuyến/ Nghe Tổ Quốc gọi lên đường! Mà lòng ta xao xuyến / …” xem tiếp

Anh Phạm Hồng năm 2013 là 85 tuổi, nguyên chính ủy trung đoàn 568 sau làm chính ủy sư đoàn 325B đã nhớ lại trong THƯ CỦA ANH PHẠM HỒNG 80 TUỔI NĂM 2008:

… “Xa em, càng nhớ những ngày này 35 năm trước, theo lệnh tổng động viên của Chủ tịch Nước, hàng chục vạn sinh viên của các trường đại học, cao đẳng trong cả nước đã xếp bút nghiên lên đường cùng cả nước “đánh cho Mỹ cút” như lời Bác Hồ dặn. Anh cùng đơn vị được đón em từ Trường Đại học Nông nghiệp cùng hàng ngàn anh em về huấn luyện chi viện chiến trường.

Biết em là con út, mới lớn lên đã sớm mồ côi cha mẹ, ngày chỉ được ăn một bữa, áo chỉ mặc một manh … mà đã có chí học hành thành sinh viên đại học, tình nguyện vào chiến trường đánh Mỹ! Anh và đồng đội để em cùng đơn vị vào miền Nam đánh vài trận rồi gọi ra ngay để có kinh nghiệm về đội huấn luyện, góp sức đào tạo hàng vạn tiểu đội trưởng “khuôn vàng thước ngọc” của phân đội nhỏ nhất trong quân đội ta. Hàng vạn tiểu đội trưởng từ đoàn 568 anh hùng đã phụ trách hàng vạn tiểu đội với hơn mười vạn quân đi khắp chiến trường chống Mỹ xâm lược…

Cùng lúc ấy, trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1972, đã có nhiều bạn sinh viên của em trong 81 đại đội vượt sông Thạch Hãn vào đánh giặc ở thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm… Sau này, cả nước và thế giới đều biết những người con “tiền trí thức” yêu quý của dân tộc và quân đội ta từ trường đại học hiên ngang đi thẳng ra chiến trường đánh Mỹ, trở thành những anh hùng bất tử với dòng Thạch Hãn:“Đò xuôi Thạch Hãn xin chèo nhẹ / Đáy sông còn đó bạn tôi nằm / Có tuổi thanh xuân thành sóng nước /Vỗ yên bờ bãi mãi ngàn năm”.

Em cùng với những bạn trí thức ngày ấy đã xứng đáng với lòng tin yêu và truyền thống của đoàn 568 làm tốt nhiệm vụ đào tạo tiểu đội trưởng cho chiến trường, rồi học tiếp đại học, lấy bằng tiến sĩ, về làm giám đốc trung tâm nghiên cứu khoa học nông nghiệp, ngày đêm gắn bó với Đông Nam Bộ, đồng bằng sông Cửu Long, Tây Nguyên và duyên hải miền Trung. Nay em lại làm giảng viên đại học, góp phần đào tạo những kỹ sư, thạc sỹ, tiến sỹ của hơn 45 triệu nông dân đã đang nuôi sống cả xã hội và đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

Nhân năm mới, mừng hai em không ngừng tiến bộ và thành đạt trên con đường khoa học của mình, mừng hai cháu Nguyên Long nối tiếp truyền thống gia đình, luôn tiến bộ trưởng thành. Mong được đón các em và các cháu. Gửi các em những dòng tâm tình của anh trong trang thơ kèm đây nhân 80 mùa xuân”.

MỪNG TUỔI TÁM MƯƠI

Thấm thoát thoi đưa vừa ngoảnh lại
Xuân nay mình đã tám mươi tròn
Bốn tư năm lẻ đi đánh giặc
Hưu về tóc bạc vẫn lòng son

Nhớ buổi đầu vào Vệ quốc quân
Dối nhà đi họp đã hơn tuần
Kiểm tra sức khoẻ năm phòng huyện
Suýt bị trả về: chưa đủ cân!

Trận đầu bố trí ở Cầu Bây
Giáo búp đa sắc lẹm trong tay
Đợi địch tràn sang là xốc tới
“Đánh giáp lá cà” với giặc Tây.

Trận hai chặn Pháp ở cầu Ghềnh
Quê hương Bãi Sậy giáp Như Quỳnh
Với khẩu súng trường, viên đạn thép
Quần với thằng Tây cao lênh khênh

Trận ba được nhận khẩu tiểu liên
Với mười viên đạn một băng liền
Chặn giặc từ đầu đường “ba chín”
Thôn nghèo Yên Lịch dạ trung kiên!

Vừa đánh Tây vừa cõng thương binh
Vượt sông giá lạnh lúc bình minh
Máu đồng đội thấm đầy quân phục
Vẫn chẳng rời nhau nghĩa tử sinh!

Thế rồi hơn bốn chục mùa xuân
Chiến trường giục giã chẳng dừng chân
Theo anh Văn, ngọn cờ Quyết thắng
Bác Hồ cùng chúng cháu hành quân!

Cả đời mãi miết cuộc trường chinh
Ơn vợ, quê hương vẹn nghĩa tình
Tần tảo nuôi con, chăm cha mẹ
Vượt ngàn gian khó, giỏi mưu sinh!

Pháp Mỹ chạy rồi, nước chửa yên
Hai đầu biên giới lửa triền miên
Năm cha con lại cùng thắng giặc
Trên biên phía Bắc bảy năm liền.

Trở về đội ngũ cựu chiến binh
Cháu con đều tiến bộ, trưởng thành
Cùng anh em tiếp vun truyền thống
Chung tay làm rạng rỡ quê mình…

Sức mạnh nhân dân và đồng đội
Dựng làng văn hoá thật kiên trung
Vượt bao thử thách hai thời đại
Quê hương Tán Thuật xã anh hùng.

Tám chục tuổi đời vẫn thanh xuân
Sáu hai tuổi Đảng vẫn kiệm, cần
Liêm chính làm theo lời Bác day
Vinh nào bằng “công bộc nhân dân”

Mười tám năm qua hưu chẳng nghỉ
Đồng đội luôn về sum họp vui
Mọi việc làm đều cùng suy nghĩ
Đơm hoa, kết trái đẹp cho đời

Vui thay mình đang tới tám hai
Phía trước đường xuân vẫn rộng dài
Nước mạnh, dân giàu, nhà hạnh phúc
Ngẩng đầu thẳng bước tới tương lai.

Phạm Hồng
CCB nhà 8/17 Bạch Đằng Thành phố Hải Dương
Nguồn: Thư anh Phạm Hồng 80 tuổi năm 2008 http://yume.vn/hoangkimvietnam/article/thu-cua-anh-pham-hong-80-tuoi.35AD9DA7.html

Trần Quốc Vượng 2004. Lời tựa trong sách Trương Đình Tưởng chủ biên 2004. Địa chí văn hóa dân gian Ninh Bình. Nhà Xuất bản Thế Giới trang 7-10

Hồ Chí Minh 1969. Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh Bản “Tuyệt đối bí mật” – Di chúc Bác sửa chữa năm 1968 Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam.

VỀ VIỆT BẮC NHỚ NGƯỜI
Hoàng Kim
Lớp 10ATT ĐHNN2 Hà Bắc năm 2022 vừa có chuyến Du lịch sinh thái Việt điểm đến Về Việt Bắc nhớ Người Một số ảnh tuyển chọn

Ảnh đẹp yêu thích

nangsom_danghongky

Nắng sớm, ảnh Đặng Hồng Kỳ

CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích  
Mênh mang một khúc sông Hồng
Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Tỉnh thức cùng tháng năm


TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #tinhyeucuocsong  #hoangkimlong,  #hoanggia#Thungdung#dayvahoc, #vietnamhoc#cnm365#cltvn; Ban mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Ai bảo chăn trâu là khổ? A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôiChọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định CủaThầy Quyền thâm canh lúaThầy Xuân canh tác lúa; Thầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;  Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử;  Sự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; #cnm365 #cltvn An nhiên; Một gia đình yêu thương; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; An vui cụ Trạng Trình; Trăng rằm Ngọc Quan Âm; Pho tượng Ngọc Quan Âm; Quà xuân thật tuyệt vời; Chuyện đời không thể quên; Thời chuyển mùa nhớ bạn.

Xuân mới; Ban mai chào ngày mới; Theo chân người dẫn đường;Nông nghiệp sinh thái Việt;Học không bao giờ muộn; Lời Thầy dặn thung dung; Lời Thầy luôn theo em; Ban mai lặng lẽ sáng; Vui bước tới thảnh thơi; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Chuyện cổ tích người lớn; Ngày 9 tháng 2 năm 1796, Càn Long Đế chính thức nhường lại ngôi hoàng đế triều Thanh cho con là Gia Khánh Đế Ngung Diễm, nhằm ngày Mậu Thân mồng 1 tháng 1 năm Bính Thìn. Ngày 9 tháng 2 năm 1943 ngày sinh Joseph Stiglitz, nhà kinh tế học người Mỹ, đoạt giải Nobel, ông là một trong những nhà kinh tế học xuất sắc nhất thế giới, theo đánh giá của dự án RePE; Bài chọn lọc ngày 9 tháng 2: #cnm365 #cltvn #vietnamhoc Xuân mới;Ban mai chào ngày mới; Theo chân người dẫn đường; Nông nghiệp sinh thái Việt; Học không bao giờ muộn; Lời Thầy dặn thung dung; Lời Thầy luôn theo em; Ban mai lặng lẽ sáng; Vui bước tới thảnh thơi; Hoàng Thành đến Trúc Lâm; Chuyện cổ tích người lớn; Gốc mai vàng trước ngõ; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Hoàng Trung Trực đời lính; Truyện Pie Đại đế; Minh triết cho mỗi ngày. Biển Hồ Chùa Bửu Minh, Trần Đăng Khoa trong tôi; Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-9-thang-2/https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-9-thang-2/

THỜI CHUYỂN MÙA NHỚ BẠN
Hoàng Kim


Ban mai tỉnh thức chào ngày mới
Sáng sớm bình tâm luyện tinh thần
Đức độ #Thungdung vui trí huệ
Phước lành vô sự dưỡng thân tâm
Dạy trẻ chẳng cầu danh với lợi
Học già nguyện ước thiện và hay
Sống giữa thiên nhiên mưa gió mát
Vui cùng người Ngọc nắng ban mai.

““Nghìn dặm tìm anh chẳng gặp anh/ Đường về vó ngựa dẫm mây xanh/ Qua đèo chợt gặp mai đầu suối/ Đóa đóa vàng tươi xuân thắm cành“ “Thiên lý tầm quân vị ngộ quân, Mã đề đạp toái lĩnh đầu vân. Quy lại ngẫu quá sơn mai thụ, Mỗi đoá hoàng hoa nhất điểm xuân” Hồ Chí Minh “Tầm hữu vị ngộ’ “Thướng sơn” là ẩn ngữ giữa đời thường. Hoàng Kim may mắn phát hiện, cảm nhận, và kết nối tâm thức này với Chương trình Sắn Việt Nam VNCP, một chuyện đời không thể quên, Văn chương ngọc cho đời lắng đọng trầm tích thời gian vận mệnh đất nước, con người. “Tận nhật tầm xuân bất kiến xuân/ Mang hài đạp phá lãnh đầu vân/ Quy lai khước phá mai hoa hạ/ Xuân tại chi đầu vị thập phân”. Bài thơ “Tầm hữu vị ngộ” của Bác Hồ đối họa với bài thơ cổ này thời Tống. Bài thơ tả một ni cô mang hài trèo đèo vượt núi cực khổ tìm xuân suốt ngày mà vẫn chẳng gặp xuân. Đến khi trở về mới thấy xuân đang hiện trên những cành mai trong vườn nhà.

Mận chín trĩu cành chờ tay hái
Cây xanh lộc muộn nắng tươi xuân
Đất duyên trời cảm đời thêm quả
Đón bạn về thăm ngọt trái cầm

Tôi chép lại bài thơ “Thời chuyển mùa nhớ bạn” của chính mình với 15 bài thơ tháng Ba của các bạn Lâm Cúc, Phan Chí Thắng, Đặng Kim Oanh, Trần Đăng Khoa, Nguyên Hùng, Nguyễn Thị Kim Liên, Nguyễn Thu Thủy, Bi Bo, Lê An Tôn, Nhược Mộng, Hoa Nắng, Nguyễn Bính, Đỗ Hồng, Bình Nguyên Trang, Phạm Ngọc với bốn bài bình thơ của Trọng Toàn, Hoài Vân, Chung Lê và Nguyễn Quang Vinh. Hình cuối bài là hai ảnh có trong chùm ảnh tư liệu Dấu xưa thầy bạn quý, TTC Group Sen vào hè; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;

Cuộc đời thật hạnh phúc. Thầy bạn là lộc xuân. (Hoàng Kim chuyện đời tôi) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thoi-chuyen-mua-nho-ban :

BAN MAI CHÀO NGÀY MỚI
Hoàng Kim

Nắng ban mai ghé cửa
Tỉnh thức hoa bình minh
Sớm xuân cuối đêm lạnh
Cười nụ nhớ an nhiên.

Trăng rằm thương nhớ anh
Đêm lạnh vầng trăng tỏ
Nắng xuân tươi trước cửa
Trăng thương nơi cuối trời

Thích chia cùng thiền sư
Giọt sương mai đầu nụ
bạch ngọc thích tánh tuệ
Trăng rằm thương mẹ hiền

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ban-mai-chao-ngay-moi/

denvoitaynguyen

THEO CHÂN NGƯỜI DẪN ĐƯỜNG
Hoàng Kim

Trên đá hoa cương đặt tại Quảng trường Tây Nguyên là thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam tại Pleyku. Bác viết ở Hà Nội ngày 19 tháng 4 năm 1946 với lời thề đại đoàn kết toàn dân nay được khắc. Chúng ta cùng đọc để thấu hiểu và chung sức nổ lực cho sự kết nối con người các dân tộc Việt, cho Phân hiệu Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh tại Gia Lai tỏa sáng và phát triển bền vững.

Tỉnh thức cùng tháng năm
BÀI HỌC QUÝ MỖI NGÀY
https://hoangkimvn.wordpress.com/2023/02/09/tinh-thuc-cung-thang-nam-82/?fbclid=IwAR3Ona78DX0BYaT7GKDKwzx9k0PXcsas0u7eKa7E_NexObVJYpbF8bwiU0k
Cảm ơn bạn Minh Ngữ Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc Cuộc đời thật hạnh phúc. Thầy bạn là lộc xuân Thời chuyển mùa nhớ bạn



ĐẾN VỚI TÂY NGUYÊN MỚI
Hoàng Kim

Đến với Tây Nguyên mới
Thăm lại chiến trường xưa
Đất khoai sắn nuôi người
Sử thi vùng huyền thoại.

Vầng đá chốn đại ngàn
Rượu cần nơi bản vắng
Câu cá bên dòng Sêrêpôk
Tắm tiên Chư Jang Sin

Thương Kim Thiết Vũ Môn
Nhớ người hiền một thuở
Hồ Lắk Đình Lạc Giao
Biển Hồ Chùa Bửu Minh

Nước rừng và sự sống
Chuyện đời không thể quên
Cây Lương thực bạn hiền
Lớp học vui ngày mới

Ai ẩn nơi phố núi
Ai tỏ Ngọc Quan Âm
Ai hiện chốn non xanh
Mây trắng trời thăm thẳm
Nước biếc đất an lành

Soi bóng mình đáy nước
Sáng bình minh giữa đời
Thung dung làm việc thiện
Vui bước tới thảnh thơi

Đến với Tây Nguyên mới
Bao chuyện đời không quên

Đến với Tây Nguyên mới chúng ta theo chân người dẫn đường là nhà văn Nguyên Ngọc tác giả của “Nước mội, rừng xanh và sự sống“, “Các bạn tôi ở trên ấy”. Tây Nguyên con người và thiên nhiên là một nền văn hóa lịch sử địa lý thật phong phú và độc đáo. Nhà văn Nguyên Ngọc với vốn sống đầy đặn và một thời gian dài gắn bó với Tây Nguyên, đã khắc họa rõ nét, chạm đến tầng sâu của tính cách con người và văn hóa Tây Nguyên: phóng khoáng, tự do, nồng hậu, giàu tình yêu thương.

Đến với Tây Nguyên mới chúng ta cũng theo chân một người dẫn đường khác là nhà thơ Văn Công Hùng của những tác phẩm lắng đọng trầm tích “Tây Nguyên của tôi” “Một thế hệ Tây Nguyên mới” “Lời vĩnh cữu” sẽ giúp chúng ta một góc nhìn khá thú vị về Tây Nguyên.

ben-che-ruou-can

Đến với Tây Nguyên mới chúng ta hãy cùng đắm mình trong không gian kỳ thú của những Vườn Quốc gia Việt Nam tại địa bàn này: khám phá hệ thực vật trong vùng núi Ngọc Linh hùng vĩ, dãy núi cao nhất của Bắc Tây Nguyên “nóc nhà Đông Dương’; chuyển giao tiến bộ kỹ thuật canh tác cây trồng cho những cộng đồng dân tộc thiểu số dưới chân núi Chư Jang Sin dãy núi cao nhất của Nam Tây Nguyên; đến với Se San, Srepok và các dòng sông Tây Nguyên, nguồn chính của hợp lưu dòng Mekong; bên ché rượu cần với già làng Đăk Đoa cạnh hồ trên núi Đầu Rồng… Chúng ta được đi vào câu chuyện đất và thức ăn (Land and Food) của Tây Nguyên trong sự so sánh với 500 năm nông nghiệp Brazil  đối thoại các nền văn hóa. Chúng ta cùng tìm về nền văn hóa bản địa, sự canh tác cổ xưa và tìm về những dấu chân mở đất. Thăm chùa cổ Minh Quang ở Pleyku, thăm nhà mồ Tây Nguyên, đến Biển Hồ ‘mắt ngọc cao nguyên’, đàm đạo với vị cao tăng tì kheo Thích Giác Tâm ở chùa cổ Bửu Minh, tác giả của “Ta về còn một niềm tin”… Tây Nguyên con người thiên nhiên là vùng không gian rộng lớn đặc biệt thú vị để dạy, học, làm nông nghiệp và du lịch sinh thái.

nguyenngocnuocmoirungxanhvasusong
Đến với Tây Nguyên mới, trong những câu chuyện hôm nay, bạn nên đọc lại “Nguyên Ngọc: Nước mội, rừng xanh và sự sống” mà tôi đã kịp chép lại “Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên. Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn… Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này. Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.” Nguyên Ngọc,  Kinh tế Sài Gòn Online (Cát Tiên – ảnh Hoàng Kim).

nguyenngocvanconghung

Đến với Tây Nguyên mới, đọc “Văn Công Hùng: Tây Nguyên của tôi”, tôi ngắm nghía bức ảnh “Một thế hệ Tây Nguyên mới” và đọc đi đọc lại nhiều lần đoản văn kết: “Tây Nguyên đang rời xa đi cái gốc nguyên thủy của nó, đang bị giằng xé dữ dội giữa phát triển và bảo tồn, giữa những vòng quay chóng mặt của ngộ nhận và cố chấp, của cả tự ti và áp đặt, của vênh vang và ngu dốt, của thực dụng và hiếu thắng… Chứ trong tôi, một Tây Nguyên hài hòa, nhân văn, trữ tình và đầy khát vọng nhưng cũng rất khiêm nhường luôn luôn thường trực, một Tây Nguyên biết cứ khi nào con người mỏi chân thì lại hiện lên một cái cây bóng mát, một Tây Nguyên có hẳn một nghi lễ khóc trâu trước khi hiến tế, và một Tây Nguyên cương quyết không lừa thần linh, nên dẫu nhà nước hứa rồi nhưng lại không cho thần linh ăn trâu thì họ mang về làng để làm. Bởi họ không ăn trâu, mà là dâng hiến cho thần linh. Sự dâng hiến tự nguyện và thành kính. Nhân nghĩa thủy chung và cũng rất giữ lời, trung thực một cách cực đoan như vậy đấy, Tây Nguyên của tôi…

Tôi nói với các em sinh viên Nông Học 14 Gia Lai và Nông Học 14 Ninh Thuận rằng Đề cương môn học Cây Lương thực và Tài liệu học tập chính có mục ‘Môn học tiên quyết’ bao gồm: Sinh học, Nông học đại cương, Khoa học đất cơ bản, Thực vật và phân lọai thực vật, Khí tượng nông nghiệp, Sinh học phân tử, Sinh lý thực vật, Sinh hóa thực vật, Di truyền thực vật, Chọn giống cây trồng, Vi sinh trong nông nghiệp, Bệnh cây đại cương và chuyên khoa, Côn trùng đại cương và chuyên khoa, Thuốc bảo vệ thực vật, Bảo vệ môi trường nông nghiệp, Thủy nông, Máy nông nghiệp, Công nghệ sinh học trong nông nghiệp. Tuy vậy, có những bài viết không trong danh mục ‘Môn học tiên quyết’ nhưng các em không thể không đọc như bài “Nguyên Ngọc: Nước mội, rừng xanh và sự sống” và Văn Công Hùng: Tây Nguyên của tôi. Chúng ta cần đọc đi đọc lại nhiều lần. Những tài liệu này tôi trích dẫn toàn văn dưới đây vì bài học không cho phép trích dẫn dài hơn.Các em sinh viên nên đọc thẳng chính văn là tốt nhất.

Đến với Tây Nguyên mới, một thoáng Tây Nguyên, thao thức một góc nhìn tham chiếu.

CÓ LỚP SINH VIÊN NHƯ THẾ

Có lớp sinh viên như thế
Em như hạt ngọc cho đời
Khai mở vùng năng lượng mới
Suối nguồn tươi trẻ mãi thôi…

“Lắng nghe chăm chú, hỏi thông minh, học và làm sáng tạo”. Câu chuyện về họ là chuyện thực đời thường như suối nguồn tươi trẻ, thao thiết chảy mãi không ngừng. Chúc các bạn nổ lực học tập để khởi nghiệp thành công. Tôi trò chuyện với Văn Công Hùng, nhà văn Tây Nguyên, tác giả của “Lời vĩnh cửu” và “Tây Nguyên của tôi” rằng, sinh viên Tây Nguyên hôm nay đã hỏi tôi: Thưa Thầy, Thầy đi nhiều hãy cho chúng em biết nơi nào đáng sống nhất và đáng học nhất?; Thưa Thầy, quê em ở …. ruộng nửa khô nửa nước, đất ương điền canh tác khó khăn, thầy giúp ý kiến nuôi trồng để dân thoát nghèo có lợi nhất?”… Những câu hỏi thông minh đến vậy đã làm cho sự trả lời không đơn giản, đánh thức trong tôi việc tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và đúc kết di sản lý luận để đáp ứng. Dạy và học không chỉ là sự trao truyền kiến thức chuyên môn mà còn thắp lên ngọn lửa, đánh thức tiềm lực, giúp học viên tìm tòi, suy nghĩ đối thoại tìm ra định hướng để khai mở vùng năng lượng to lớn của con người và thiên nhiên nơi mình đang sống. Bởi định hướng quan trọng hơn tốc độ.

Hỏi và trả lời: “Bạn có ba phút giới thiệu một thoáng Tây Nguyên, điểm nhấn là Pleyku, nơi trường bạn đang học”. Tôi đã nhận được những câu trả lời tức thời và thực hay. Một thoáng Tây Nguyên của tôi đã góp thêm một góc nhìn của một nhà khoa học xanh người thầy chiến sĩ, một người lính Tây Nguyên năm xưa trở lại chiến trường xưa, trở về Ký ức Tây Nguyên mà tôi đã có dịp kể lại trong mục ‘Người lính cây sắn  và tuổi thơ” của bài viết Cách mạng sắn ở Việt Nam.

Đến với Tây Nguyên chúng ta thấu hiểu nhiều cảnh ngộ, nhiều cuộc đời, với những mưu sinh khởi nghiệp nhọc nhằn và nhiều câu hỏi  được đặt ra rộng lớn hơn trang sách và những giáo trình kinh điển. Tôi đã gặp nhiều em sinh viên như thế. Câu chuyện về họ đầy ắp dẫn liệu để nói thêm, viết thêm ngoài tiết học chính. Những ghi chú thực sự ấn tượng.

Hình ảnh trên đây và bài thơ thật xúc động của cô bé Võ Minh Thư gửi Thầy Hoàng Kim. làm tôi nhớ mãi và thấm thía những cảnh ngộ.
“Ta đi ngủ lúc gà che gáy sáng
Chợt nhận ra đêm … chẳng phải một mình,
Có chó có mèo, có gà che đợi sáng
Nhiều âm thanh!. 

Âm của màn đêm
Ta ngả lưng, biết bao người phải thức
Thương..
Ta phải cố, luôn dặn lòng phải cố
VÌ một tương lai bớt đi những cảnh nghèo
VÌ lời thầy “đời còn nhiều cảnh khổ lắm con ơi”

Đến với Tây Nguyên mới, chúng ta đến với nhiều cảnh đời không xa lạ của những người bạn cùng học. Đinh Văn Thăng người dân tộc, tốt nghiệp kỹ sư nông học năm 2013. Bạn ấy làm đề tài tốt nghiệp về tuyển chọn giống lúa ở trại giống lúa Phú Thiện. nay về chính quê hương mình để khởi nghiệp với suối rừng và nương rẫy Tây Nguyên.

Bạn Hoài và Thanh Liễu chung lớp nay thì đang chung nổ lực học thạc sĩ ngành bảo vệ thực vật. Hoài thì đỡ vất vả hơn đang định cùng chồng là Nghĩa chung lớp nông học lập trang trại vườn nhà. Thanh Liễu thì khó khăn hơn , cô vừa  học vừa đi phục vụ quán ăn và nay đang có ý định … cưới chồng để phát triển ‘thương hiệu’ nhà hàng LÁ và ý định khởi nghiệp du lịch sinh thái. Những câu chuyện ‘Tây Nguyên của tôi’ thật hay và rất thú vị …

Bạn Đặng Hồng Thân người sinh viên thân thương của tôi. Thân làm đề tài lúa do tôi hướng dẫn. Ra trường, Thân mở cửa hàng tại quê hương do Thân có mẹ già cần nuôi dưỡng nên muốn làm việc gần nhà để tiện gần gũi chăm sóc mẹ, và quán nhỏ giúp mẹ vui sống mỗi ngày. Nghe tin tôi lên dạy Gia Lai , Thân chạy xe máy trên mười lăm cây số ra thăm thầy. Ăn cơm và trò chuyện, tôi biết thêm về cuộc sống và sự khởi nghiệp của thế hệ Tây Nguyên mới.

Tôi thật thấm thía sự lựa chọn của Bác Hồ năm 1946 đối với chiến khu Việt Bắc quyết tâm  gian lao kháng chiến toàn dân toàn diện trường kỳ, và thật sự khâm phục về tầm nhìn kết nối Tây Nguyên đại đoàn kết dân tộc tránh cho sự chia rẽ. Lịch sử sẽ khác đi nếu vương triều Nguyễn và những người đối lập cách mạng lựa chọn Tây Nguyên để từ đất “hoàng triều cương thổ” mà vươn ra ‘gian lao kháng chiến’ tại Tây Nguyên như Cụ Hồ đã lựa chọn ở Việt Bắc.

‘Bài thơ Việt Bắc’ của Trần Dần viết về sự khai sinh của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa non trẻ thuở trước, viết về sự dấn thân của lãnh tụ Hồ Chí Minh và các nhà cách mạng tiền bối thật thấm thía:

“Ở đây ta dấy nghiệp nhọc nhằn
Hai tay trắng mưu cơ tần tảo
Mới làm nên đất nước bây giờ.
Ở đây muối mặn ta kiêng
thương xót đời con khát nước
Tương lai ta thắt bụng vì mày!”

Bài thơ Việt Bắc của Trần Dần có trong bài ĐƯỜNG XUÂN mà tôi đã trích chép tặng cho các em sinh viên Nông Học 14 Ninh Thuận và Nông Học 14 Gia Lai.

Tôi giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật Cây Lương Thực Việt Nam và tìm sự tiếp cận dạy, học để làm (Learning to Doing) dạy, học bởi  làm (Learning by Doing) về cây lương thực thích hợp cho con người, môi trường sinh thái và điều kiện khoa học kỹ thuật, kinh tế, văn hóa, xã hội Tây Nguyên. Dạy học không chỉ là trao truyền kiến thức chuyên môn mà còn thắp lên ngọn lửa, đánh thức tiềm lực, khai mở vùng năng lượng to lớn của con người và thiên nhiên nơi đây, giúp đối thoại tìm ra định hướng. Bởi vì định hướng quan trọng hơn tốc độ.

Trong bài Nhớ thầy Luật lúa OM và OMCS tôi có kể câu chuyện một lần cố đại tướng Võ Nguyên Giáp khi đang làm Phó Thủ Tướng phụ trách Khoa học Kỹ thuật và Chương trình Kế họach hóa Gia đình, trong một chuyến thăm một đơn vị rất thành công ở miền Tây, bác Văn đã hỏi về bài học kinh nghiệm thành công. Vị giám đốc đơn vị vui vẻ trình bày: Em có bốn bài học thấm thía nhất: một là o bế dân, được lòng dân nên được tất cả; hai là o bế địa phương, mất lòng thổ địa thì chẳng thể anh hùng; ba là o bế hiền tài và các bậc cao minh, sự nghiệp phát triển được là nhờ họ; bốn là o bế em, thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.

Theo chân người dẫn đường là bài học quan trọng để chúng ta hiểu sâu hơn về nôi văn hóa, lịch sử địa lý của một vùng đất và tác động đúng hướng. Định hướng quan trọng hơn tốc độ.

TÂY NGUYÊN TẦM NHÌN GIẢI PHÁP

Hội nghị xúc tiến đầu tư vùng Tây Nguyên lần thứ Tư năm 2017 đã tổ chức tại thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, ngày 11 tháng 3. Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã đến dự và chứng kiến dòng vốn đầu tư kỷ lục vào Tây Nguyên với lễ trao cam kết tín dụng đầu tư của các ngân hàng cho các dự án đầu tư, trao chứng nhận đầu tư, quyết định đầu tư, thỏa thuận đầu tư cho các dự án với tổng vốn kỷ lục hơn 100.000 tỷ đồng.

Tầm nhìn Chính phủ đối với Tây Nguyên: Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc cho rằng: “Tây Nguyên có tiềm năng, thế mạnh to lớn, độc đáo nhưng chưa được khai thác tốt. Tây Nguyên không chỉ là phên dậu của Tổ quốc, mà là điểm tựa phát triển của miền Trung, Đông Nam Bộ và cả Tây Nam Bộ. Thời gian qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo của Nhà nước, sự phấn đấu của cấp ủy, chính quyền 5 tỉnh Tây Nguyên, vùng đã có sự phát triển khởi sắc. Tuy nhiên, sau 40 năm giải phóng, Tây Nguyên còn tồn tại nhiều bất cập như tình trạng mất rừng, mất nguồn nước, mất nhiều cơ hội về đầu tư phát triển, đặc biệt là quy mô, hiệu quả của vùng đất tiềm năng chưa được khai thác đúng mức để phát triển và nâng cao mức sống người dân“. Trang website Thử tướng chính phủ khẳng định.

Thủ tướng chia sẻ tầm nhìn về một Tây Nguyên mới.Đó là Tây Nguyên phải phấn đấu trở thành cao nguyên trù phú về nông nghiệp hữu cơ, đa dạng về sinh thái, giàu có về vốn văn hóa. Chìa khóa cho sự vươn lên giàu có của Tây Nguyên là phát triển ngành chế biến nông lâm nghiệp, dược liệu theo hướng đề cao bản sắc, tính độc đáo trong chuỗi giá trị nông sản thế giới. Đồng thời Tây Nguyên phải là biểu tượng nổi bật của du lịch Việt Nam, mang đậm sắc thái huyền thoại và di sản của châu Á trong thế kỷ thứ 21. Để thực hiện hóa điều đó, Tây Nguyên phải có chiến lược bền vững trong việc hồi sinh trở lại vẻ đẹp đại ngàn của một vùng đất đậm chất sử thi, phải luôn ý thức giữ gìn không gian sống, phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, là truyền thống, niềm tự hào thiêng liêng của các cộng đồng Ê Đê, Jrai, M’nông, Ba Na, Kinh… trong đại các gia đình các dân tộc Việt Nam anh em”.

Các giải pháp lớn đối với Tây Nguyên: Thủ tướng đã gợi mở một số giải pháp chính.

Về du lịch, Tây Nguyên là một kho tàng văn hóa phi vật thể cùng với điều kiện tự nhiên, Chính phủ quyết tâm cùng với Tây Nguyên đưa sử thi Tây Nguyên trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới. Càng nhiều người biết đến sử thi này thì sức lan tỏa của du lịch Tây Nguyên càng lớn. Du lịch Việt Nam nói chung và du lịch Tây Nguyên nói riêng cần có chiến lược phát triển đa dạng.

Về nông nghiệp, phải hình thành những vùng chuyên canh lớn và phát triển nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp sạch, tập trung quy mô lớn, giá trị hàng hóa lớn, đặc biệt phải đi vào chế biến sâu, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm.

Về nguồn nhân lực, chất lượng giáo dục cơ bản ở vùng Tây Nguyên phải bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tây Nguyên là nóc nhà Đông Dương, là vùng cao về địa lý thì không thể và không nên là vùng trũng giáo dục của cả nước.

Về bảo vệ, phát triển rừng, “cách đây gần một năm, cũng tại Đắk Lắk này, tôi đã tuyên bố đóng cửa rừng tự nhiên. Hôm nay, tôi tái khẳng định quyết tâm mạnh mẽ hơn nữa của Chính phủ, bảo vệ rừng là bảo vệ phần cốt lõi của an ninh, không chỉ là an ninh của vùng đất được mệnh danh là nóc nhà Đông Dương, mà là an ninh của toàn Nam Trung Bộ, Tây Nam Bộ và cả nước”, Thủ tướng nhấn mạnh. 

Bảo vệ rừng là bảo vệ không gian sinh tồn, nguồn nước, sinh kế của người dân, không gian di sản của cha ông. Mọi hành vi phá rừng, khai thác lâm sản trái phép là tội ác. Tiếp tục trồng rừng, không phá rừng nghèo để trồng cây công nghiệp mà tập trung tái canh, nâng cao năng suất thông qua thâm canh các loại cây công nghiệp.

Về công nghiệp, bài toán công nghiệp cho Tây Nguyên chính là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến, mở rộng chuỗi giá trị sản phẩm cây công nghiệp. Đồng ý chủ trương phát triển năng lượng tái tạo, Thủ tướng đặt vấn đề phát triển ở đâu và chỉ rõ: Ở vùng đất không thể trồng được cây gì.

Về hạ tầng, cần tránh tư tưởng làm manh mún. Cần tập trung nguồn lực, “góp gạo thổi cơm” để có công trình hạ tầng then chốt ở Tây Nguyên. Phải xã hội hóa mạnh mẽ việc phát triển hạ tầng, kể cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Thủ tướng cũng cho rằng, Tây Nguyên cần liên kết với duyên hải miền Trung, miền Đông Nam Bộ, TPHCM và các vùng có thể tiêu thụ được các sản phẩm có giá trị gia tăng cao của Tây Nguyên. Liên kết cả cơ sở hạ tầng, đặc biệt là liên kết du lịch.

Về tín dụng, khuyến khích vay tín chấp, nhất là với hộ nông dân, đồng bào dân tộc; có nhiều hình thức hỗ trợ như cấp bù lãi suất…”

*

Đến với Tây Nguyên mới là sự tỉnh thức. Đó là sự khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.

Theo chân người dẫn đường Học không bao giờ muộn. Vui đi dưới mặt trời. Một niềm tin thắp lửa. Xuân ấm áp tình thân Lời Thầy dặn thung dung

Greeting from Hoang Kim Vietnam to book online Inca Trail 4 days . It’s good opportunity for my to learn and work together with you https://www.qoriankatours.com/inca-trail-peru/.Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://hoangkimlong.wordpress.com/2021/02/09/loi-thay-dan-thung-dung/

Hoàng Kim

Tài liệu dẫn

NƯỚC MỘI, RỪNG XANH VÀ SỰ SỐNG
Nguyên Ngọc

(TBKTSG) – Câu chuyện này nói vào đầu xuân có thể hơi buồn, nhưng nghĩ kỹ lại có lẽ cũng có chỗ thích hợp, bởi vì đây là câu chuyện về màu xanh, màu của mùa xuân xanh. Của sự sống.

Quê tôi ở vùng Nam Trung bộ, đúng cái đoạn mà một nhà thơ từng thống thiết gọi là “dằng dặc khúc ruột miền Trung”. Ở đấy, miên man mấy trăm cây số ven biển là những cồn cát lớn, nơi trắng phau một màu trắng tinh khiết đến khó tin, nơi vàng rộm ngon lành trong nắng cháy. Làng cũng là làng trên cát; con người sống trên cát, tử sinh cùng với cát.

Tôi có đọc một ít lịch sử và tôi biết, lạ vậy, toàn cát vậy, nhưng đấy vốn không phải là một vùng đất nghèo. Từng có cả một vương quốc thịnh vượng trên dải đất này. Một vương quốc nông nghiệp và hải dương. Có lẽ một trong những bí quyết thịnh vượng của vương quốc ấy là nước, mà thiên nhiên đã rất thông minh giữ và dành cho dải đất thoạt nhìn thật khô cằn này, và con người thì cũng thật thông minh hiểu được món quà quý của đất trời, biết tận dụng lấy cho mình.

Cho đến chỉ cách đây đâu khoảng chưa đến nửa thế kỷ, ở quê tôi vẫn còn một kỹ thuật nông nghiệp rất đặc biệt, tinh tế và thú vị, gọi là kỹ thuật “tưới nước mội”, người Việt học được của người Chăm khi đi vào Nam.

Nước mội là nước rỉ ra từ các chân đồi cát, trong veo, mát lạnh, tinh sạch đến mức có thể bụm vào lòng bàn tay, ngửa cổ uống ngay ngon lành. Ở đây người ta vỡ ruộng ngay trên cát, các đám ruộng được gọi là “thổ”, những đám thổ trồng đủ các loại hoa màu. Ở góc thổ bao giờ cũng có một chiếc ao nhỏ, cạn thôi, nhưng quanh năm lúc nào cũng đầy ắp nước, tát đi lại đầy ngay, cả trong những mùa nắng hạn gay gắt nhất.

Nước mội từ trong lòng cát rỉ ra, nhẹ nhàng, chậm chạp, từ tốn, mà bất tận. Những chiếc ao nước mội, những con mắt ngọc xanh rờn, mát rượi của đất đai, làng mạc, đồng ruộng quê tôi. Nhỏ nhoi và thầm lặng, chính chúng nuôi sống nền nông nghiệp từng trù phú của vương quốc xưa, và của cả cha ông chúng tôi nữa khi họ đi về Nam…

Champa cũng là một vương quốc biển, từng dong thuyền đến những đại dương xa, và từng có những cảng quốc tế rộn rịp trên suốt dọc bờ biển của mình. Những người có đôi chút kiến thức về giao thương biển đều biết rằng một trong những điều kiện đầu tiên và quan trọng nhất của một cảng biển quốc tế là nước ngọt, phải rất dồi dào nước ngọt. Những con tàu lang thang nhiều tháng trời trên các đại dương mặn chát, lắm khi chẳng vì mua bán gì cả, vẫn phải ghé lại các cảng ven bờ để “ăn” nước ngọt.

Và trên dải cồn cát miên man của mình, người Chăm là những người thiện nghệ nhất thế gian về nghề tìm mạch nước, đào và thiết kế giếng nước ngọt. Họ như có con mắt thần, có thể nhìn thấy đường đi của nước ngọt âm thầm trong lòng đất, những dòng nước mội. Chính hệ thống giếng nước ngọt thánh thiện và tuyệt vời – từ nước mội bất tận rỉ ra mà có – đã tạo nên vương quốc đại dương Champa, tôi nghĩ nói thế cũng chẳng hề quá đáng đâu…

Từ nhỏ, là dân vùng cát cháy miền Trung, tôi đã có hạnh phúc được biết nước mội, nếm nước mội, ăn nước mội, sống và lớn lên bằng cây cỏ được nuôi bằng nguồn nước mội ân huệ bất tận.

Của trời.

Rồi về sau, cuộc đời lại đã cho tôi một may mắn khác: tôi hiểu hóa ra “trời” không phải là một đấng trừu tượng thần bí nào, mà là một thực thể sống động, khổng lồ, cường tráng, hùng vĩ…, mà lạ thay, cũng lại rất mong manh, hết sức mong manh, ngày càng đang trở nên cực kỳ mong manh!

Trường Sơn. Tây Nguyên.

Tôi đã được đi đến nơi đó và gắn bó hơn nửa cuộc đời của mình ở đó.

Hóa ra có một “bí mật” to lớn: ngọn nguồn của nước mội tuyệt diệu tưới tắm cả vùng cát dằng dặc ven biển miền Trung chính là nơi đó, Tây Nguyên, rừng đại ngàn, rừng nguyên sinh, rừng nhiệt đới Tây Nguyên.

Chính rừng Tây Nguyên, từ trên Trường Sơn rất xa xôi kia, đêm ngày, hàng triệu triệu năm nay, như một người mẹ vĩ đại, bao dung và tần tảo, hứng lấy tất cả các nguồn nước của đất trời, cất lấy, “để dành”, tằn tiện, tuyệt đối không phí mất một giọt nào, để từng ngày từng ngày chắt chiu mà bất tận cung cấp cho đứa con đồng bằng của mình, cho sự sống có thể sinh sôi, nảy nở, trường tồn trên dải đất cát trông chừng rất khắc nghiệt kia. Cho các vương quốc, các triều đại, các nhà nước, các chế độ ra đời, phát triển, nối tiếp. Và sống còn…

Nước mội chính là những dòng nước nhỏ, liên tục, không bao giờ dứt, đi âm thầm và vô hình trong lòng đất, từ những đỉnh Trường Sơn xa xôi kia, đến tận những cồn cát tưởng chẳng thể có chút sự sống này.

Vậy đó, Tây Nguyên, ý nghĩa của Tây Nguyên và rừng Tây Nguyên, dù chỉ mới là qua một khía cạnh rất nhỏ của nó, nước.

Có lẽ cũng cần nói thêm một chút nữa về điều này: không chỉ cho dải đất cát cháy miền Trung đâu. Trường Sơn có một đặc điểm quan trọng về địa hình: đường phân thủy ở đây không chạy đúng giữa mà sát ngay về phía Đông của rặng núi dằng dặc này, nghĩa là sườn phía Tây của Trường Sơn rộng hơn sườn phía Đông rất nhiều, có thể đến bốn năm lần. Tức nước từ Tây Nguyên đổ về phía Tây cũng nhiều hơn về phía Đông có thể đến bốn hay năm lần. Mà đổ về phía Tây tức là về Mêkông, về Nam bộ. Về toàn miền Nam.

Trong một chừng mực nào đó, Tây Nguyên, rừng Tây Nguyên có ý nghĩa quyết định đối với toàn miền Nam về tất cả các mặt. Nếu chỉ nói một mặt nước thôi, thì có lẽ cũng nên nhớ: nước ở miền Tây Nam bộ, ở Cà Mau kia, cũng có thể là nước mội từ Mẹ Rừng Tây Nguyên chắt chiu đưa về đấy, cho mênh mang vùng đất lúa của cả nước ấy không bị nhiễm mặn…

Hàng ngàn đời nay có những con người đã sống ở đây, gắn bó ruột thịt với rừng và đã tạo nên cả một nền văn hóa đầy minh triết bắt nguồn chính từ sự gắn bó ấy. Để bày tỏ đôi lời thật giản lược về nền văn hóa ấy và những con người ấy, chắc có thể nói vắn tắt như thế này: người Tây Nguyên không bao giờ coi rừng là tài nguyên. Không bao giờ có khái niệm khai phá, chinh phục, chiếm lĩnh tự nhiên, rừng. Đơn giản, rừng đối với họ là tất cả, là mẹ, là cội nguồn của sự sống. Mà họ kính trọng và tôn thờ.

Chúng ta, những người tự coi là rất văn minh, rất khoa học, chúng ta biết nước là nguồn gốc của sự sống, nhưng chúng ta không biết, biết bằng hành vi cụ thể chứ không phải bằng lý lẽ to tát, rằng không có rừng thì cũng chẳng có, chẳng còn nước, nghĩa là cũng chẳng còn có sự sống, chúng ta không biết cái chân lý sơ đẳng và đơn giản ấy. Nhìn thấy rừng là con mắt ta hau háu nhìn thấy gỗ, gỗ, gỗ… Và hết gỗ rồi, bây giờ, thấy tài nguyên khác… Hau háu, hung hăng, hỗn hào chặt phá, và hết chặt phá, chẳng còn gì để chặt phá nữa thì đào bới…

Ở quê tôi, nay đã kiệt nước mội rồi. Chi tiết rất nhỏ ấy thôi, vậy đó, lại đang là tai họa tày trời!

Chắc chưa ai quên vụ lũ kinh hoàng ở Phú Yên vừa rồi. Cả thành phố Tuy Hòa, thị xã Sông Cầu chìm trong nước sâu. Gần trăm người chết. Ruộng đồng tan hoang… Một vị có trách nhiệm rất cao giải thích: Ấy là vì biến đổi khí hậu toàn cầu, và lại nữa, vì nhân dân mất cảnh giác. Tại trời và tại dân, trời thì ngày càng tai ác, còn dân thì mãi ngu dốt! Có một chi tiết hẳn ở cương vị của ông ấy, ông ấy ắt phải biết nhưng lại không thấy ông nói: năm 2009, ở Phú Yên áp thấp nhiệt đới gây mưa 330 mi li mét; năm 1991, cũng tại chính Phú Yên này, mưa 1.300 mi li mét, gấp hơn ba lần. Năm 1991 không có gì đáng kể, năm 2009 lại là tai họa khủng khiếp, vì sao?

Ở miền Trung – mà ở cả nước đều vậy – ngày xưa chỉ có lụt và lụt là mùa rất vui, thậm chí thân thiết, mỗi năm lại trở lại một lần, người ta chờ nước lụt, nước lên từ tốn, ruộng đồng được tưới tắm phù sa, cũng là lúc làm ăn rộn rã, có lẽ cũng tương tự như mùa nước nổi ở Nam bộ thuở nào.

Ngày nay không còn lụt, chỉ có lũ. Lũ rất khác lụt, lũ là nước đột ngột đổ ập xuống, như thác, hung bạo, nhanh và dữ cho đến nỗi, như vừa rồi, có người đã leo lên trần nhà rồi còn chết ngạt trong ấy vì không kịp dỡ mái để leo lên nữa! Lũ không mang phù sa đến, lũ quét sạch tất cả những gì nó gặp trên đường đi, và kéo đất đá từ trên rừng xuống lấp hết ruộng đồng.

Tất nhiên ngày xưa cũng có lũ, nhưng chỉ trong những năm mưa đặc biệt lớn, cả đời một con người chỉ chứng kiến vài lần. Ngày nay hễ đài vừa báo áp thấp nhiệt đới, thậm chí chỉ áp thấp, là cả nước đã rùng rùng lo chống lũ, sập núi, trôi rừng…

Con số 1.300 li năm 1991 và 330 li năm 2009 là con số hùng hồn, nó nói rằng vụ Phú Yên vừa rồi không phải chủ yếu do biến đổi khí hậu toàn cầu, không phải do trời, như lời giải thích uyên bác của vị quan chức nọ.

Do người. Do cơ chế nước mội tinh tế, tinh vi, thông minh, nhân hậu tuyệt vời của thiên nhiên đã không còn, đã bị phá vỡ, đã bị con người triệt diệt bằng cách triệt diệt rừng. Rừng Tây Nguyên. Trong một cuộc trao đổi ở Liên hiệp các Hội khoa học kỹ thuật Trung ương vừa rồi, nhiều chuyên gia đã cảnh báo: không chỉ có nguy cơ lũ quét đâu, sau lũ quét sẽ tiếp đến nguy cơ hạn hán sẽ còn khốc liệt, tai hại hơn. Bởi vì nước mội và lụt hàng năm hiền lành là cùng một cơ chế, cùng một tác giả: Rừng. Rừng Tây Nguyên.

Trong hơn 30 năm qua, chúng ta đã làm xong một công việc to lớn: cơ bản phá hết, cạo sạch đến tận cùng rừng tự nhiên trên cái mái nhà sinh tử của toàn Đông Dương này. Đã quét sạch xong hết trên mặt đất, bây giờ đang bắt đầu moi sạch nốt dưới lòng đất. Cao su tuyệt đối không phải là rừng, không sinh ra cơ chế nước mội. Các khu công nghiệp của công nghiệp hóa và hiện đại hóa càng tuyệt đối không phải là rừng. Một quy luật vận hành ổn định, điều hòa, thông minh của tự nhiên đã bị triệt diệt, nhanh và cơ bản hơn tất cả mọi giai đoạn từng có trong lịch sử. Một quy luật khác đã được thiết lập, quy luật của hỗn loạn.

Hãy nhìn lên cái mái nhà chung kia mà bao nhiêu thế hệ nhiều ngàn năm qua đã giao lại cho chúng ta, trên ấy đã mất hết màu xanh của sự sống.

Có còn cứu được không?

Còn, với một điều kiện: biết giật mình, dừng lại, bắt đầu lại.

Cũng cần nói: hầu hết các nước mà ngày nay ta gọi là những nước phát triển đều đã đi qua “con đường đau khổ”, cũng từng tàn phá hết rừng trên mặt đất và đào bới tàn bạo lòng đất, ở nước họ, rồi ở các nước khác. Chỉ có điều, gần một thế kỷ trước họ đã giật mình dừng lại, và từ đó bắt đầu làm lại, khôi phục lại màu xanh cho đất đai, núi non của họ.

Đi sau, chúng ta có thể khôn ngoan hơn như lẽ ra phải thế. Sự vội vã, kiêu căng, và lòng tham không đáy, đã che mắt chúng ta. Đang còn tiếp tục che mắt chúng ta. Chúng ta vẫn còn hăng lắm trong việc chặt phá nốt đôi chút còn lại và đang bắt đầu một công cuộc đào bới hung dữ.

Cần ngay bây giờ chấm dứt mọi khai phá ở Tây Nguyên. Cần nghĩ đến một con đường sống khác, một kiểu sống khác, một kiểu phát triển khác. Trên cả nước. Trước hết trên mái nhà sinh tử Tây Nguyên. Bắt đầu lại một công cuộc cứu lấy Tây Nguyên. Bắt đầu một sự nghiệp to lớn trồng lại rừng Tây Nguyên, trong một trăm năm, quyết liệt, kiên định, thông minh, với những kế hoạch cụ thể, cho 50 năm, 20 năm, 10 năm, 5 năm, toàn Tây Nguyên, từng tỉnh, từng huyện, từng xã, từng làng.

Khôi phục lại màu xanh cho Tây Nguyên.

Bắt đầu ngay từ hôm nay, mùa xuân, mùa của màu xanh, của sự tỉnh táo, khôn ngoan.

Cho đến một ngày, có thể một trăm năm nữa, con cháu chúng ta sẽ có thể bụm vào lòng bàn tay một ngụm nước mội trong veo mát lạnh rỉ ra từ đất cát và ngửa cổ uống ngon lành. Và biết rằng cha ông chúng từng rất dại dột, nhưng rồi cũng đã từng biết khôn ngoan, để cho sự sống từng sắp bị triệt diệt, lại được cứu, lại sinh sôi, phát triển, trường tồn.

TÂY NGUYÊN CỦA TÔI
Văn Công Hùng

Tôi sống ở đất này đã hơn ba mươi năm. Đã có nhiều cơ hội để đi, đến những thành phố lớn hơn, như Huế, Hà Nội, Sài Gòn… nhưng rồi đều đã dằng díu mà ở lại. Té ra mình yêu nó đến mức không dứt ra mà đi được rồi…

Bài viết này tôi viết trong nỗi yêu thương và cả đắng đót xót xa đến đớn đau về cái vùng đất mình đã gắn với nó hơn nửa đời người. Và là bài viết về Tây Nguyên ưng ý nhất từ xưa đến nay, nhiều bạn bè văn chương đã đọc và đều… khen, huhu…

Có lần một cô giáo đến tìm tôi tại phòng làm việc. Vân vi một hồi rồi thì cô nói rằng cô giáo của cô, một tiến sĩ ngữ văn, là người quen của tôi, nói cô đến tìm tôi. Thì ra là cô này chuẩn bị làm luận văn thạc sĩ, mà cô thì rất yêu văn học dân gian Tây Nguyên, thích sử thi Tây Nguyên (tôi vẫn cho rằng cái từ sử thi này nó chưa ổn lắm), và cái cô tiến sĩ bạn tôi kia là người sẽ hướng dẫn luận văn cho cô giáo này. Cô trò ngồi bàn nhau cả buổi và cuối cùng thì cô giáo tiến sĩ nói cô giáo chuẩn bị thạc sĩ về tìm tôi, nhờ tôi tư vấn cho đề tài mà làm.

Lại cũng mất cả tiếng đồng hồ thao thao các kiểu thì trong tôi lóe lên một tứ, rằng là, em thử làm về yếu tố biển trong sử thi Tây Nguyên xem. Cô này ớ ra nhưng rồi sau khi nghe tôi thuyết phục đã về viết đề cương để nộp…

Đại loại rằng, trong quá trình sống, tiếp xúc, sưu tầm, tìm hiểu…, tôi thấy trong khá nhiều các trường ca cổ (H’ri, H’amon…) của người Tây Nguyên có nhắc đến biển. Và điều kỳ lạ là, những gì họ nhắc, khá là giống… biển, dù các nghệ nhân khi kể cho chúng tôi ghi chép lại những trường ca kia, một trăm phần trăm chưa ai thấy biển, chưa biết biển là như thế nào?

Ngày xưa các làng Tây Nguyên sống biệt lập, ẩn trong ngút ngàn rừng già. Làng này biệt lập với làng kia, mỗi làng là một vương quốc. Các làng chỉ gặp nhau trong vài trường hợp như: đánh nhau giành đất, được mời sang dự Pơ thi hoặc lễ gì đấy. Người Việt cũng lấy lũy tre làng làm biên giới, nhưng hàng tháng họ còn có cái chợ phiên để đến đấy giao lưu. Ngay người Mông, người Thái cũng vậy. Người Tây Nguyên không có chợ, không có các hoạt động liên làng nên việc họ gặp nhau rất là hãn hữu.

Huống gì thấy biển

Thế mà trong các trường ca cổ ấy, có rất nhiều biển.

Tôi giải thích với cô giáo ấy rằng, nguyên do có thể ngày xưa Tây Nguyên vốn dĩ là đại dương, rồi qua một cơn tạo sơn vĩ đại nào đấy, tự nhiên biển hóa núi, và thành Tây Nguyên như hiện nay. Vì đã có lần tôi nghe nói, người ta đào được một cái vỏ sò rất lớn ở vùng nào đó của Đăk Lăk. Thì cũng là nghe nói thế, thậm chí có người nhờ tôi xác minh, nhưng rồi quên mất. Cái vỏ sò ấy nếu có, nó cũng có niên đại cả triệu năm chứ không ít.

Nguyên do thứ hai đến từ khát vọng của người Tây nguyên cổ. Ở đời thiếu cái gì người ta thường mơ về cái ấy, trong đấy, bầu trời và đáy biển là hai nơi con người khát khao khám phá nhất. Thần thoại Hy Lạp chả đã có nhân vật là cậu bé Icarus lấy sáp ong gắn lông chim làm cánh để bay lên trời hòng xem trên ấy có gì mà rực rỡ thế. Ước mơ ấy đã suýt thành hiện thực nếu như cậu đã không vì tò mò quá mà bay lên rất gần mặt trời. Sức nóng làm sáp ong chảy ra và cậu rơi xuống biển, chấm dứt một giấc mơ hoành tráng nhưng tuyệt đẹp của con người mà mãi hàng nhiều vạn năm sau, hậu thế của Icarus đã làm được. Cũng như thế, những gì mà Jules Verne đã kể trong cuốn sách nổi tiếng của ông “Hai vạn dặm dưới đáy biển” thì té ra sau này hoàn toàn có thật, dù khi viết nó, ông chỉ ngồi một chỗ và… tưởng tượng.

vanconghungtaynguyencuatoi1

Nhắc tới Jules Verne, không thể không nói tới khả năng liên tưởng tiên đoán thiên tài của những nghệ sĩ thứ thiệt. Các nghệ nhân Tây nguyên, khi sáng tạo ra các trường ca ấy, tuy là vô danh nhưng đều là những con người cụ thể. Đời này qua đời khác, họ sáng tạo kiểu chắp nối để rồi thành hàng ngàn trang sử thi cho chúng ta sưu tầm, nghiên cứu… Sự tưởng tượng thiên tài chỉ xuất hiện ở những con người kiệt xuất, những nghệ sĩ thứ thiệt có thể thấy trước tương lai. Phải vậy chăng mà trong các chức năng của văn chương, có chức năng dự báo…Vân vân, là tôi ngồi véo von như thế để cho cô giáo về mà tự nghiên cứu chứ tôi chỉ là kẻ lớt phớt thôi. Rất tiếc, sau này tôi có gặp tiến sĩ Đấu – Chủ nhiệm Khoa văn  (Trường đại học Quy Nhơn), anh có nhắc lại chuyện cái đề tài ấy, khi ấy anh cũng không biết là của tôi nghĩ ra. Anh bảo là khi ấy cả hội đồng không ai hình dung được rằng Tây Nguyên lại có biển, tưởng rằng nó chỉ là đặc sản của Quy Nhơn và những vùng tương tự thế, nên đã bác cái đề cương này, nhưng giờ nghe tôi phân tích thì anh bảo… hay quá. Tôi đùa nhưng giờ thì tôi thu lại bản quyền rồi, các ông không được dùng nữa…

Tôi sống ở Tây Nguyên đến giờ mới hơn ba chục năm mà đã chứng kiến bao thay đổi, thì cái sự ngày xưa nơi đây là biển rồi giờ thành rừng cũng chả lấy gì làm lạ lắm. Rồi ngay cái gọi là rừng thì bây giờ cũng đã có nhiều thay đổi lắm rồi. Ngày xưa rừng ngút mắt, rừng miên man, rừng chằng chịt, giờ, tất cả như khoe ra dưới mặt trời cái màu đất Tây Nguyên tưởng như đặc trưng té ra cũng không đặc trưng nữa… Tây Nguyên thay đổi vừa do quy luật tự nhiên, vừa do con người. Càng văn minh thì con người càng can thiệp vào thiên nhiên thô bạo hơn.

Tôi nhớ mãi cái ấn tượng về cây Kơ Nia mà ông họa sĩ Xu Man bày cho tôi hồi mới lên Tây Nguyên nhận công tác. Hồi ấy là đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước.

Xu Man người Bahnar, là họa sĩ có đai có đẳng của Tây Nguyên, 2 khóa liền là ủy viên Ban chấp hành Hội Mỹ thuật Việt Nam. Ông có nhiều tranh được Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam mua và được giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.

Đấy là một con người Tây Nguyên nhất trong những người Tây Nguyên mà tôi gặp. Đã từng đi nước ngoài, nhiều năm ở Hà Nội, học từ cao đẳng lên đại học mỹ thuật, nhưng về hưu một cái là ông về làng ngay, dù tỉnh Gia Lai hồi ấy tuyên bố cấp nhà trên  phố Pleiku cho ông. Về làng ông cũng ở nhà sàn. Cái nhà gạch nền xi măng Ty Văn hóa làm cho ông ở làng, ông để làm… kho và cho anh em họa sĩ học trò hoặc đồng nghiệp về thăm ông ở và sáng tác, vì làng ông rất đẹp. Ông tự tay làm một cái nhà sàn phía sau, đống lửa giữa nhà, ghè rượu quanh vách, tấm dồ một góc, những quả bầu đựng nước, những chiếc gùi, nồi cơm và nồi canh lá sắn cà đắng trên bếp, những ống thịt trên giàn… tất cả làm nên một thế giới Bahnar của Xu Man. Cái duy nhất khác giữa ông với một già làng Bahnar hồi ấy là ông có một cái đài (radio) mở oang oang cả ngày. Khi còn làm ở ty Văn hóa Gia Lai thì ông vẫn chủ yếu ở dưới làng, tháng đôi lần ông lên cơ quan họp, bằng xe đạp, tất nhiên. Từ Pleiku về làng ông hơn 60 cây số. Trong một buổi sáng nắng gay gắt, cùng đạp xe với ông, khát quá, tôi rủ ông ghé vào một quán cà phê ven đường nghỉ. Ông bảo cố tí nữa, đến gốc Kơ nia kia nghỉ sẽ rất thú vị.

Và quả là thú vị. Dốc chiếc túi cói treo ở ghi đông xe ra, ông có một chai rượu nhỏ, một bầu nước suối và một nắm hạt tôi không biết hạt gì. Nước suối thời trong veo và mát lịm, khi lên Pleiku ông đều ra con suối làng mình lấy mấy bầu rồi mang lên thành phố dùng. Ông nhẩn nha đập ra mấy hạt rồi chìa cho tôi một hạt, bảo hãy nhắm với rượu. Thì ra đấy là hạt Kơ nia. Ông kể, cây Kơ nia từ đời nào đến giờ là bạn của người Tây Nguyên, nó che chở cho người Tây nguyên, thậm chí là ân huệ của đấng tối cao ban cho người Tây Nguyên. Thì đấy, cứ đi trên đường, bao giờ mỏi chân, lại một cây Kơ nia hiện ra, mọi người túm lại đấy nghỉ, hết mệt lại đi, người Tây Nguyên toàn đi bộ nhé, bao giờ mệt, khát, lại một cây Kơ nia xuất hiện, che chở cho con người, dìu con người qua cơn đói, cơn khát, cơn nắng… vậy nó không phải của đấng tối cao cử xuống chở che cho con người thì là gì?

vanconghungtaynguyencuatoi2Sau này tìm hiểu tôi mới biết, té ra là hạt Kơ nia ăn rất ngon, nó giúp cho người Tây Nguyên, và cả bộ đội một thời, thay cơm mùa giáp hạt. Mỗi khi rời nhà lên rẫy hoặc ngược lại, họ đều lấy một ít bỏ vào gùi, đến khi mệt thì ngồi nghỉ, lấy hạt ra đập ăn, lấy nước trong bầu uống. Và trong lúc dùng đá đập thì thế nào cũng có vài hạt văng ra đâu đó, trong những hạt văng ra ấy, thế nào cũng có một hạt mọc thành cây. Cứ thế, đời này qua đời khác, những cây Kơ nia cô lẻ trở thành thước đo cơn khát cơn mệt và cũng trở thành nơi che chở cơn khát cơn mệt của con người.

Giờ, Kơ nia thành của hiếm, dẫu nó không phải loại gỗ quý, không thuộc nhóm một nhóm hai. Nó chỉ còn trong bài hát của Phan Huỳnh Điểu phổ thơ Ngọc Anh với giọng hát một thời Măng Thị Hội chứ cánh trẻ bây giờ cũng ít hát, vừa khó vừa không thời thượng.

Cũng như rừng, Kơ nia đang dần mất dạng trong những chiều Tây Nguyên thông thốc gió. Những kẻ giang hồ muốn ngồi hướng mắt về chân trời nào đó mà nhớ một thuở chưa xa, mắt không thể nào vượt qua vài chục mét.Người Tây Nguyên giờ cũng không còn hạt Kơ nia bỏ trong gùi làm lương thực nữa. Họ có mì tôm, có cơm bỏ trong bì nilon, có nước đựng trong các chai nhựa, vẫn là nước suối, nhưng là những con suối chết, bởi nó phơi mình ra dưới nắng dưới bụi chứ không uốn lượn trong rừng, dưới những tán lá xanh mướt khiến nước cũng ngất ngây trong uống đến đâu biết đến đấy.

Cũng phơi ra dưới nắng là những làng Tây Nguyên bây giờ. Những mái nhà lợp tôn đỏ bầm như màu trời ngày sau bão. Những thói quen, những nếp ứng xử cũng đã khác xưa. Không hiểu tốt hay xấu hơn, nhưng rõ ràng, nó lạnh lẽo hơn dẫu là ngồi trong nhà mái tôn giữa trưa hực nắng. Nó cũng cô đơn hơn dẫu bây giờ rất nhiều các mối quan hệ chằng chéo níu giữ.

Ngày xưa sau gia đình là đến cộng làng với già làng. Và chỉ thế. Giờ còn bao nhiêu cơ quan đoàn thể, bao nhiêu sự chi phối, bao nhiêu cánh cửa mở ra mà sao con người vẫn thấy cô đơn, trần trụi. Cũng là đi bộ, người Tây Nguyên chuyên đi bộ theo hàng một, dẫu là hàng trăm người đi. Nhưng là đi trong rừng, bất trắc đấy- đi hàng một để tránh bất trắc- nhưng vẫn thấy yên ổn ấm áp, bởi rừng, dẫu bất trắc khôn lường, nhưng luôn thân thiện và sẻ chia cùng con người. Giờ, đường ô tô tận làng, người dân vẫn đi bộ, vẫn hàng một, mà sao cứ thấy lầm lụi,  cứ thấy vênh lên trong cái màu đỏ đến nhức mắt của đất đỏ, của màu trời và cả trong màu cà phê chín…

vanconghungtaynguyencuatoi3Hôm nọ ở một cái festival rất lớn mang tầm quốc tế về cồng chiêng, người ta định bảo bà con diễn một cuộc ăn trâu phục vụ festival, chuẩn bị xong hết thì lại bảo bà con không làm nữa vì có vị lãnh đạo bảo nó dã man quá. Nhiều người không biết rằng, cái cuộc ăn trâu ấy sau này dân làng vẫn phải tự làm ở làng mình, vì đơn giản, nếu không làm tức là lừa dối thần linh.

Tôi không ủng hộ sự dã man, nhất là khi nó lại phơi ra giữa thanh thiên bạch nhật, trước hàng ngàn người như lâu nay chúng ta thấy ở các “lễ hội đâm trâu” do nhà nước tổ chức. Té ra đâm trâu nó khác, đơn giản và tình nghĩa hơn nhiều…Trước hết nhân đây phải khẳng định thêm một lần nữa, rằng là không có cái gọi là “lễ hội đâm trâu” như lâu nay chúng ta hay gọi.

Nó chỉ là một thành tố của một lễ hội, và người Tây Nguyên gọi nôm na là ăn trâu. Họ làm con trâu ấy để cúng thần linh, mời thần linh ăn, để họ tạ ơn thần linh đã giúp cho họ những việc lớn của làng. Những lễ hội mà có ăn trâu rất hiếm và không thường xuyên tổ chức. Để có cái cuộc ăn trâu vào sáng sớm hôm sau ấy, đêm trước đã có một cái lễ khóc trâu. Những người đàn bà thân thuộc với con trâu được chọn để ngày mai làm lễ ấy, tối hôm trước ra chỗ cột trâu và… khóc trâu. Họ khóc rất bài bản, cám ơn con trâu và cũng “giao nhiệm vụ” cho trâu ngày mai thay mặt họ đi gặp thần linh. Họ cho con trâu ăn những ngọn cỏ non nhất mới cắt lúc chiều, mời trâu uống thứ rượu cần chắt từ lần cắm cần đầu tiên…Rồi lúc tổ chức “tiễn trâu về với Yang”, theo nhiều người Tây Nguyên kể, không có nhiều người xem như hiện nay, đặc biệt là trẻ con càng không. Toàn các cụ già. Họ tiến hành nghi lễ thiêng liêng với thần linh, con trâu ấy chính là hiện thân của dân làng “tiếp kiến” thần linh.

Chứ không như hiện nay, người ta phong cho nó thành “lễ hội đâm trâu” rồi xách ông trâu ra cột giữa cái sân đông đặc người, rồi nhảy múa hú hét xung quanh cho con trâu ba hồn chín vía bay tiệt lên trời rồi bất thình lình đâm một nhát, máu me nhoè nhoẹt.

Vấn đề là, ai, và từ lúc nào, đã làm cho ý nghĩa những sinh hoạt văn hóa, và ý nghĩa tâm linh của những sinh hoạt ấy bị biến tướng đi một cách dữ dội thế…?

Nguyễn Cường là một nhạc sĩ rất nổi tiếng viết về Tây Nguyên. Nhưng Tây Nguyên nhất quyết không phải như những gì Nguyễn Cường đã viết. Anh đã tạo ra một lớp công chúng của mình bằng cách phả rock vào những ca khúc anh viết về Tây Nguyên, tạo ra một Tây Nguyên máu lửa, hừng hực, man dại và… nông cạn. Trong khi thật sự, Tây Nguyên lại rất trữ tình, sâu sắc và… mềm yếu mong manh nữa. Thì hãy nghe Y Phôn Ksor chẳng hạn, chàng nhạc sĩ kiêm ca sĩ người Ê Đê này có mấy bài hát để đời như “Đi tìm lời ru mặt trời”, “Đôi chân trần”… mà xem, ta hoàn toàn không thấy hú hét, không lắc mông lắc ngực, không nhảy tưng tưng, mà nó thủ thỉ tâm tình, nó xa xót đắng đót, nó thâm trầm đến thắc thỏm u uẩn, khiến người nghe như mỏng đi, như dẹt ra trong cái thổn thức nao lòng của giai điệu.

Tôi đã có nhiều đêm thức để nghe các già làng, các nghệ nhân cao tuổi kể khan (hri, hamon), chưa bao giờ thấy hú hét, chưa bao giờ thấy giậm giật. Chỉ là những thủ thỉ tâm tình, những câu chuyện ăn vào đêm, xuyên vào đêm, rỉ rả như đêm để rồi mỗi sáng mai lại bừng ngộ rằng, cái thế giới mà tôi vừa lẫn vào nó tối qua, té ra nó lại đang hiển hiện ngay trước mắt tôi kia, nhưng nó lại cũng vô cùng lạ lẫm, bởi tôi vừa được chứng kiến sự thoát thân kỳ lạ của nghệ nhân. Cái ông cởi trần mặc khố thu lu đầu gối quá tai nhăn nheo ngồi trước tôi bây giờ và cái ông mới đêm qua nằm kể khan vừa là 1 mà lại là 2, vừa trần trụi lại vừa lộng lẫy, vừa hiện thực cũ mèm đây lại cũng rất tinh khôi ngời sáng khi dám đi bắt nữ thần mặt trời, dám “đằng vân quá hải” chỉ để thỏa mãn khát vọng tự do của mình…

Tôi cũng từng có một cuộc ngồi rất thú vị với mấy “quý ông” Tây Nguyên nổi tiếng một thời ở nhà ca sĩ Y Zăc. Những là Y Phôn Ksor, Y Moan, Kran Dich, KPlin, Y Zắc… ngồi suốt một đêm, ngồi nghe họ hát mộc dân ca Tây Nguyên với Ghi ta, uống rượu cần trong một ngôi nhà ngoại ô thành phố Buôn Ma Thuột. Rồi nghe họ nói chuyện về Tây Nguyên, thì mới biết té ra, lâu nay những cái mình biết về Tây Nguyên chỉ là lớp váng, chỉ là thứ phù du bụi bặm nổi lên trên, sâu lắng phía dưới, lặn dưới đáy là cả một trầm tích đậm đặc vừa ma mị vừa minh triết với những hiển nhiên nhưng không thể cắt nghĩa được. Chao ơi, cái khó, cái làm ta ma mị chính là ở những điều hiển nhiên không thể cắt nghĩa được ấy. Ai mà cắt nghĩa được rằng, tại sao tự mình không làm ra chiêng, nhưng người Tây Nguyên đã biến chiêng thành một thứ tài sản đương nhiên của mình không cần bảo chứng vậy. Ban đầu người Tây Nguyên làm chiêng bằng… tre nứa, sau đấy họ mon  men xuống đồng bằng nước Việt, hoặc thông qua thương lái đưa lên, rồi sang cả Lào, đổi trâu, voi… lấy chiêng. Vì thế tên chiêng bây giờ vẫn có chiêng Yoăn (Kinh), chiêng Lao (Lào). Nhưng chiêng chỉ thành chiêng khi nó được chính những nghệ nhân tài hoa Tây Nguyên ra tay chỉnh, bây giờ hay gọi là lên dây chiêng. Cuộc hồi sinh vĩ đại của chiêng chính là từ sự chỉnh chiêng của người Tây Nguyên này. Phải qua công đoạn này thì chiêng mới thành… chiêng. Rồi còn tự tạo ra không gian chiêng nữa…

Cái sự mà UNESCO công nhận không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại không hẳn là vì chiêng Tây Nguyên vĩ đại, được tôn vinh, mà ý nghĩa chính là món này nó đang chuẩn bị tiệt chủng, cần bảo vệ khẩn cấp. Bao nhiêu năm qua, từ cái thời đề cương văn hóa của ông Trường Chinh, chúng ta đã đề cao dân tộc tính, chỉ rõ phải bảo tồn ra sao, bản sắc ra sao… thế mà rồi, cụ thể ra, cái bản sắc thật sự của Tây Nguyên là gì đã mấy ai hiểu hết. Cồng chiêng đấy, suốt ngày kêu gọi bảo tồn rồi nâng niu gìn giữ, cuối cùng thì phải bảo vệ khẩn cấp. Lý do người Tây Nguyên quý chiêng như thế là vì chiêng không chỉ là vật chất thông thường đổi bằng trâu bằng voi, mà nó chính là đời sống tâm linh, trong chiêng có Yang, thế mà bây giờ người ta dửng dưng đến thế?

Chúng tôi đã rất nhiều lần được sống cùng chiêng tại các buôn làng. Cũng nhiều lần được xem các cuộc lễ hội có đạo diễn mang chiêng trên sân khấu. Rất khó khi chúng ta cứ muốn giữ những gì là nguyên bản, và lại càng khó hơn khi chúng ta mang nó ra cộng đồng lớn hơn khu vực làng, vượt qua yếu tố nghi lễ tâm linh trở thành biểu diễn thi thố. Văn hóa và văn minh thường là xung đột với nhau để xã hội phát triển mà vẫn giữ được bản sắc dân tộc. Đời này sang đời khác, cuộc giành giật níu kéo giữa phát triển và bảo tồn, giữa cái mới và cái cũ, giữa hào nhoáng và thô sơ nguyên bản, giữa bản chất và hiện tượng… luôn làm loài người phải bận tâm để rồi chúng ta có văn hóa, có văn hóa vùng miền và văn hóa nhân loại, có văn hóa cá nhân và văn hóa cộng đồng, có văn hóa bản sắc và văn hóa đại trà… tựu trung lại, nó là những sản phẩm vô giá của con người gửi lại cho mai hậu…

Và nói thật, thấy thảm hại làm sao khi chúng ta bứng chiêng ra khỏi buôn làng, ra khỏi không gian của nó, biến nó thành những hình nhân nhí nhố trên sân khấu, trên đường phố lòe loẹt xanh đỏ tím vàng. Nhưng chúng ta đã làm và vẫn đang làm việc ấy?…

Mà ngày xưa ấy, có phải cứ tự nhiên thích đánh chiêng là lôi chiêng ra mà đánh được đâu. Giờ chúng ta làm theo kế hoạch, ngành văn hóa lên kế hoạch từ đầu năm, tháng nào tháng nào có liên hoan hoặc lễ hội cồng chiêng, sức cho các làng các xã chuẩn bị, rồi đúng ngày đúng tháng, các nghệ nhân lên xe ô tô, mang chiêng đi… thi. Lại phải nói rõ thêm một điều nữa, rằng là hoàn toàn không có “lễ hội cồng chiêng” như chúng ta hay gọi, mà cồng chiêng chỉ là một thành tố của lễ hội. Nó như cỗ phải có gà luộc nhưng gà luộc thì không phải cỗ vậy.

Tây Nguyên đang rời xa đi cái gốc nguyên thủy của nó, đang bị giằng xé dữ dội giữa phát triển và bảo tồn, giữa những vòng quay chóng mặt của ngộ nhận và cố chấp, của cả tự ti và áp đặt, của vênh vang và ngu dốt, của thực dụng và hiếu thắng…

Chứ trong tôi, một Tây Nguyên hài hòa, nhân văn, trữ tình và đầy khát vọng nhưng cũng rất khiêm nhường luôn luôn thường trực, một Tây Nguyên biết cứ khi nào con người mỏi chân thì lại hiện lên một cái cây bóng mát, một Tây Nguyên có hẳn một nghi lễ khóc trâu trước khi hiến tế, và một Tây Nguyên cương quyết không lừa thần linh, nên dẫu nhà nước hứa rồi nhưng lại không cho thần linh ăn trâu thì họ mang về làng để làm. Bởi họ không ăn trâu, mà là dâng hiến cho thần linh. Sự dâng hiến tự nguyện và thành kính.

Nhân nghĩa thủy chung và cũng rất giữ lời, trung thực một cách cực đoan như vậy đấy, Tây Nguyên của tôi…

Xem tiếp
Đến với Tây Nguyên mới
Theo chân người dẫn đường
Trên bục giảng mùa xuân
Bao chuyện đời không quên

Đến với Tây Nguyên mới

VUI BƯỚC TỚI THẢNH THƠI
Hoàng Kim

Người rất muốn đi về trong tịch lặng
Quẳng lại sau lưng nhân thế muộn phiền
Ta đến chốn thung dung tìm hoa lúa
Rong chơi đường trần sống giữa thiên nhiên.

Tâm thanh thản buồn vui cùng nhân thế
Đời Đạo thịnh suy sương sớm đầu cành
Lòng hiền dịu và trái tim nhẹ nhõm
Kho báu chính mình phúc hậu an nhiên.

Trên hai vai ta đôi vầng nhật nguyệt (*)
Trăng rằm xuân lồng lộng bóng tri âm
Người tri kỷ cùng ta và năm tháng.
Giác Tâm ta về còn trọn niềm tin.

*

Thăm người ngọc nơi xa, vùng tỉnh lặng,
Chốn ấy đồng xanh, người đã chào đời.
Nơi sỏi đá, giữa miền thiêng hoa cỏ,
Thiên nhiên an lành, bước tới thảnh thơi.

Sống giữa đời vui, giấc mơ hạnh phúc,
Cổ tích đời thường đằm thắm yêu thương.
Con cái quây quần thung dung tự tại,
Minh triết cuộc đời phúc hậu an nhiên.

Xuân Hạ Thu Đông, bốn mùa luân chuyển
Say chân quê ngày xuân đọc Trạng Trình
Ngày ra ruộng, đêm thì đọc sách.
Ngọc cho đời, giữ trọn niềm tin.

TA VỀ VỚI ĐỒNG XUÂN

Người khôn về chốn đông người
Cái nhìn thì mỏng, cái cười thì nông
Ta vui về với ruộng đồng
Để gieo tục ngữ để trồng dân ca.

Thỏa thuê cùng với cỏ hoa
Thung dung đèn sách, nhẫn nha dọn vườn
Mặc ai tính thiệt so hơn
Bát cơm gạo mới vẫn thơm láng giềng

Thiên nhiên là thú thần tiên
Chân quê là chốn bình yên đời mình
Bạn hiền bia miệng anh linh
Thảnh thơi hưởng trọn ân tình thế gian

Nước trong ngập ánh trăng vàng
Ta ra cởi bỏ nhọc nhằn âu lo
Lợi danh một thực mười hư
Trăm điều ước vọng chỉ phù du thôi

Thung dung thanh thản cuộc đời
Tình quê bồi đắp về nơi sâu đằm
Đồng Xuân đất Mẹ vạn xuân
Chọn tìm giống tốt đêm nằm chiêm bao.

LỜI THẦY LUÔN THEO EM
Hoàng Kim

trước tượng Phan Bội Châu, nhớ thầy cô Nguyễn Khoa Tịnh Trần Diệu Vinh “Thầy truyền cho chúng em niềm tin Đạo làm người, lòng yêu nước. Em càng thấm thía vô cùng. Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa. Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, … Đều yêu nghề dạy học.”

Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.

Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.

Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.

Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?

Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.

“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.
Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?

“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”

Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.

Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!” (1)
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!

Lời Thầy luôn theo em

Hoàng Kim
Rút trong tập THƠ CHO CON

(1) bài thơ của thầy Nguyễn Khoa Tịnh
Em ơi em can đảm bước chân lên“.

NHỚ THẦY CÔ
Hoàng Kim

“Đúc gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Văn Sử là Người, Thầy Cô thắp lửa thiêng
Khoa Tịnh Diệu Vinh mãi mãi vững bền.

Thầy Cô đó thanh thản cùng con cháu
Nén hương thơm thành kính ơn Người
Thầy đón Cô về là ngày giỗ Bác (*)
Xa mà gần thương nhớ mãi Cô ơi !

Tài sản Thầy Cô gia đình hạnh phúc
Phúc hậu tận tâm minh triết an nhiên
Đời thanh thản sống vui sống khỏe
Trăng rằm xuân thế giới người hiền.

(*) Thầy Nguyễn Khoa Tịnh bài thơ “Em ơi em can đảm bước chân lên“ . Cô Diệu Vinh và người thân trước mộ cụ Phan. Ngày của Cô (21 tháng 7al) là ngày giỗ Bác Hồ, 31.8.2018 Lời của Thầy theo mãi bước em đi


EM ƠI EM CAN ĐẢM BƯỚC CHÂN LÊN
Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy ước mong em noi gương Quốc Tuấn

Đọc thơ em, tim tôi thắt lại
Lòng nghẹn ngào, nước mắt chảy rưng rưng
Nửa xót xa nhưng nửa lại vui mừng
Xót xa vì đời em còn thơ dại
Mới tuổi thơ mà cuộc đời đầy khổ ải
Mới biết cười đã phải sống mồ côi
Như chiếc thuyền giữa biển tự trôi
Như chiếc lá bay về nơi vô định
“Bụng đói” viết ra thơ em vịnh:

“Cơm ngày một bữa sắn trộn khoai
Có biết lòng ta bấy hỡi ai?
Vơi vơi lòng dạ, cồn cào bụng
Kể chi no đói, mặc ngày dài”

Phải!
Kể chi no đói mặc ngày dài
Rất tự hào là thơ em sung sức
Rất tự hào là em tôi đầy nghị lực
Đã hiển lộ mình qua “Cái chảo rang”

“Trung dũng ai bằng cái chảo rang
Lửa to mới biết sáp hay vàng
Xào nấu chiên kho đều vẹn cả
Chua cay mặn ngọt giữ an toàn
Ném tung chẳng vỡ như nồi đất
Quăng bừa xó bếp vẫn nằm ngang
Tốt đẹp đâu cần danh tiếng hão
Bạn cùng lửa đỏ, nóng chang chang”

Phải!
Lửa to mới biết sáp hay vàng!
Em hãy là vàng,
Mặc ai chọn sáp!
Tôi vui sướng cùng em
Yêu giấc “Ngủ đồng
Hiên ngang khí phách:

“Sách truyền sướng nhất chức Quận công
Ta sướng khi ra ngủ giữa đồng
Lồng lộng trời hè muôn làn gió
Đêm thanh sao sang mát thu không
Nằm ngữa ung dung như khanh tướng
Lấy mấy vần thơ tỏ nỗi lòng
Tinh tú bao quanh hồn thời đại
Ngủ đồng khoan khoái ngắm gương trong”

Tôi biết chí em khi “Qua đèo Ngang
Ung dung xướng họa với người anh hùng
Đã làm quân thù khiếp sợ:

“Ta đi qua đèo Ngang
Cũng gặp Người trèo qua núi hiểm
Đỉnh dốc chênh vênh
Xe mù bụi cuốn
Có lẽ thiên nhiên đã định bao giờ
Một dãy Hoành Sơn bát ngát trận đồ
Điệp điệp núi cao
Trùng trùng rừng thẳm.
Người thấy
Súng gác trời xanh
Gió lùa biển lớn
Nông dân rộn rịp đường vui
Thanh Quan nàng nhẽ có hay
Cảnh mới đã thay cảnh cũ.
Ta hay
Máu chồng đất đỏ
Mây cuốn dặm khơi
Nhân công giọt giọt mồ hôi
Hưng Đạo thầy ơi có biết
Người nay nối chí người xưa

Tới đây
Nước biếc non xanh
Biển rộng gió đùa khuấy nước
Đi nữa
Đèo sâu vực thẳm
Núi cao mây giỡn chọc trời
Nhớ thù nhà, luống thẹn làm trai
Thương dân nước, thà sinh phận gái
“Hoành Sơn cổ lũy”
Hỏi đâu dấu tích phân tranh?
Chỉ thấy non sông
Lốc cuốn, bốn phương sấm động.
Người vì việc nước ra đi
Ta muốn cứu dân nên thăm trận thế
Điều không hẹn mà xui gặp mặt
Vô danh lại gặp hữu danh
Cuộc đời dài ắt còn sẽ gặp nhau
Nay hội ngộ giữa đỉnh cao trời đất
Anh em ta ngự trên xe đạp
Còn Người thì lại đáp com măng
Đường xuyên sơn
Anh hùng gặp anh hùng
Nhìn sóng biển Đông
Như ao trời dưới núi.

Xin kính chào
Bậc anh hùng tiền bối
Ta ngưỡng mộ Người
Và tỏ chí với non sông
Mẹ hiền ơi!
Tổ Quốc ơi!
Xin tiếp bước anh hùng!”

Hãy cố lên em!
Noi gương danh nhân mà lập chí
Ta với em
Mình hãy kết thành đôi tri kỷ!
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Tôi tự hào bài “Tỏ chí” của em:

“Quốc Tuấn ngày xưa chí vững bền
Thù nhà, nợ nước chẳng hề quên
Đến bữa quên ăn, đêm quên ngủ
Thương dân, yêu nước quyết báo đền
Văn hay thu phục muôn người Việt
Võ giỏi kinh hồn lũ tướng Nguyên
Mươi năm sau nữa ơi ông Tuấn
Nối chí ông, nay cháu tiến lên!”

Tôi thương mến em
Đã chịu khó luyện rèn
Biết HỌC LÀM NGƯỜI !
Học làm con hiếu thảo.
Mười lăm tuổi đã “Tập làm thầy giáo

“Vui gì hơn buổi đầu làm thầy giáo
Của lớp vở lòng đất mẹ yêu thương
Trưa nắng luyến các em cùng đến lớp
Giọng líu lo như chim hót ven đường.

Đứng trước các em tuổi nhỏ đáng yêu
Mà đã tưởng tới bao nhiêu người lớn
Nghe em đọc giọng thanh thanh dễ mến

Mà đã nghe đất nước xuyến xao mình!”|
Tổ Quốc đang chờ em phía trước.
Em ơi em, can đảm bước chân lên!

LỜI CỦA THẦY THEO MÃI BƯỚC EM ĐI
Hoàng Kim
tưởng nhớ thầy Nguyễn Khoa Tịnh

Thầy thung dung bước lên bục giảng
Buổi học cuối cùng “Tổng kết sử Việt Nam”
Tiếng Thầy ấm trong từng lời nói
Như muốn truyền cho các em
Tất cả những niềm tin.

Đôi mắt sáng lướt nhìn toàn bộ lớp
Thầy có dừng trên khuôn mặt nào không ?
Thầy có tin trong lớp còn ngồi học
Có những em nung nấu chí anh hùng.

Các em hiểu những gì
Trong tim óc người Thầy
Mái tóc đà điểm bạc
Em biết Thầy tâm huyết rất nhiều
Trên mười năm dạy học
Vẫn canh cánh trong lòng
Luôn tìm kiếm những người
Có chí lớn
và tấm lòng yêu nước
thương dân.

Mười năm
Thức đo thời gian
Dài như cả nỗi đau chia cắt
Sương bạc thời gian phôi pha mái tóc
Câu chuyện mười năm Đông Quan dạy học
Hẳn nhiều đêm rồi
Thầy nhớ Ức Trai xưa?

Mười năm
Trang lòng, trang thơ
Nhớ tráng sĩ Đặng Dung đêm thanh mài kiếm
Ôi câu thơ năm nào
giữa lòng Thầy xao xuyến
“Anh hùng lỡ vận ngẫm càng cay”

Mười năm
Dằng dặc thời gian
Đo lòng Thầy nhớ miền Nam tha thiết
Em tin trong lòng Thầy
Luôn âm ỉ cháy lửa lòng yêu nước
Thầy có tin rằng trong lớp
Có người trò nghèo
Chí nối Ức Trai xưa.

“Dẫu đất này khi thịnh khi suy
Song hào kiệt đời nào cũng có”

Thầy giảng Đại cáo bình Ngô
Liên hệ chuyện chân chúa Nguyễn Hoàng
âm thầm tìm kiếm Đào Duy Từ …
cũng như chuyện “Tam cố thảo lư”
anh em Lưu Bị
vượt núi thẳm, mưa tuyết, đường xa
ba lần đến Long Trung
tìm kiếm Khổng Minh Gia Cát
tuổi chỉ đáng bằng tuổi con mình
nhưng trọng dụng kỳ tài
đã tôn làm quân sư cùng lo việc nước…

Thầy kể chuyện Đào Duy Từ xưa
Bậc khai quốc công thần nhà Nguyễn
dựng nghiệp nhọc nhằn, người hiền lắm nạn
cha mẹ chết oan, chiếc lá giữa dòng…
Đào Duy Từ còn mãi với non sông:
Người có công nghiệp lẫy lừng chẳng kém Ngọa Long
Định Bắc, thu Nam, công đầu Nam tiến.
Người tổ chức phòng ngự chiều sâu
Hoành Sơn, Linh Giang, Lũy Thầy
minh chúa, quân giỏi, tướng tài, ba tầng thủ hiểm
Người xây dựng nên định chế đàng Trong
một chính quyền rất được lòng dân
nức tiếng một thời.
Người viết nên kiệt tác Hổ trướng khu cơ,
tuồng Sơn Hậu, nhã nhạc cung đình
là di sản muôn đời.
Trí tuệ bậc thầy, danh thơm vạn thuở …

Thầy giảng về bài học lịch sử Việt Nam
những người con trung hiếu
tận tụy quên mình vì dân vì nước
hẳn lòng Thầy cháy bỏng khát khao
vượng khí non sông khí thiêng hun đúc
Đất Quảng Trạch này đâu kém Nam Dương
Có nông phu ham học, chăm làm
Mà thao lược chuyển xoay thời vận.

Ôi sử sách cổ kim bao nhiêu gương sáng
Học sử ai người biết sử để noi?

“Lịch sử dân tộc mình
Những năm bảy mươi
Các em sẽ là người viết tiếp
Điểm theo thời gian
Truyền thống ông cha xưa
Oanh liệt vô cùng”

Tiếng Thầy thiết tha
Truyền nguồn cảm xúc
Các em uống từng lời
Lắng nghe từng chữ
Lời tâm huyết thấm sâu vào lòng em:
“Nung gan sắt để dời non lấp bể
Xối máu nóng rửa vết nhơ nô lệ”
Em đã tìm được trong Thầy
Một người anh
Một người đồng chí
Em vững tin trong sự nghiệp cứu dân
Hẳn có lòng Thầy luôn ở bên em!

Thầy nói nhiều về Việt Nam thân yêu
Dựng nước gian nan, người dân còn khổ
Mắt Thầy thiết tha quá chừng
Làm em mãi nhớ
Thầy truyền cho chúng em niềm tin
Đạo làm người, lòng yêu nước
Em càng thấm thía vô cùng
Vì sao những người có tâm huyết ngày xưa
Những Chu Văn An, Nguyễn Bỉnh Khiêm,
Nguyễn Thiếp, Phan Châu Trinh, …
Đều yêu nghề dạy học.

Tổ Quốc cần, gọi em về phía trước
“Em ơi em, can đảm bước chân lên!”
Em sẽ khắc trong lòng
Những lời dạy đầu tiên!

Lời của Thầy theo mãi bước em đi.

Lê Quang Vinh cùng với Ma Thi Len8 người khác.18 Tháng 11, 2017 ·

HAI BÀI THƠ – MỘT TẤM LÒNG
Lời dẫn của Lê Quang Vinh

Tôi là lứa học trò gần như “đầu đời’’ của cụ Nguyễn Khoa Tịnh. Ông dạy môn Lịch sử hai năm tôi học ở lớp 8C và lớp 9B (các năm 1964 – 1966, tại Trường Cấp 3 Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình). Tôi nhớ, hồi ấy Thầy giáo chưa… “làm thơ”; hoặc có làm nhưng không thấy đọc cho học trò nghe bao giờ.

Tôi hơn Hoàng Kim (FB “Hoàng Kim“) 6 tuổi. Em là lứa lớp sau tôi mấy khóa. Nhưng hai anh em may mắn, đều được thụ giáo (chịu sự dạy bảo) của thầy Nguyễn Khoa Tịnh.

Như đã “bật mí” tại lời dẫn của tôi trong bài “MỘT BÀI THƠ HAY CỦA NGƯỜI CON TRAI LÀNG MINH LỆ – TIẾN SĨ NÔNG HỌC HOÀNG KIM” (Lê Quang Vinh): “Chàng trai này từ nhỏ tên “Hoàng Minh Kim”, đã ham đọc sách và làm thơ; cứ tưởng sau này sẽ theo nghiệp… văn chương”.

Có lẽ thế, nên khi vừa vào học Cấp 3 Bắc Quảng Trạch, Hoàng Kim đã viết mấy bài thơ về thế giới quanh em; hoặc hoàn cảnh riêng của cá nhân mình… Em không thể ngờ được rằng, các bài thơ vô tư, hồn nhiên đó; lại có thể lọt ngay vào đôi “mắt xanh” của người thầy dạy Sử này. Đấy là “duyên thơ” của cả hai thầy trò.

Bài thơ “Em ơi em, can đảm bước chân lên” của cụ Nguyễn Khoa Tịnh chính là “họa lại” (tổng hợp, khuếch tán, nhân lên tình ý) từ cảm hứng đột nhiên khi đọc được thơ cậu học trò nhỏ của mình, gồm 6 bài thơ: “Bụng đói”, “Cái chảo rang”, “Ngủ đồng”, “Qua đèo Ngang”, “Tỏ chí”, “Tập làm thầy giáo”.

Điều thú vị là, trong bài thơ “Em ơi em, can đảm bước chân lên”, Ông giáo dùng nguyên văn nhiều câu thơ, đoạn thơ và cả bài thơ của Hoàng Kim – thủ pháp rất hiếm khi phải dùng tới hoặc khá “tối kỵ” trong sáng tạo nghệ thuật. Thế mà Thầy lại cố ý, dụng công vô cùng, để biến nó thành những câu thơ, đoạn thơ thống nhất, nhuần nhị trong cả bài thơ một cách hợp lý; khiến chất liệu thơ cùng giọng điệu, cấu tứ hòa quện nhau như… rút từ ruột gan của “chính mình’’ ra.

Cụ Nguyễn Khoa Tịnh làm điều này một cách khéo léo qua những câu thơ “bình luận” thơ trò, để “kết dính” chúng với nhau. Qua các câu thơ “bình luận” ấy, nâng tầm “thi liệu” đang được sử dụng trong bài thơ mình.

Đọc xong bài thơ, nếu không thật “chú ý”, khó lòng mà nhận ra đâu là… “thơ thầy”, đâu là… “thơ trò”. Đấy cũng là một “sự chơi” độc đáo của các bậc thi gia xưa…

(1/ “Bụng đói”: cả bài 4 câu “tứ tuyệt”.
2/ “Cái chảo rang”: cả bài 8 câu “thất ngôn”.
3/ “Ngủ đồng”: cả bài 8 câu “thất ngôn”.
4/ “Qua đèo Ngang”: cả bài 51 câu thể thơ “tự do”.
5/ “Tỏ chí”: Cả bài 8 câu thất ngôn.
6/ “Tập làm thầy giáo” cả bài 8 câu “bát ngôn”.).

Chắc chắn khi Hoàng Kim nhận lại được bài thơ đầy ân tình của Thầy – hẳn đã vô cùng sung sướng, cảm động. Đó chính là nguồn hứng khởi lay động tâm hồn, trái tim người học trò còn rất bé nhỏ này; để rồi sáng tạo nên bài thơ mới lắng đọng hơn, sâu sắc hơn, lý trí hơn: “LỜI CỦA THẦY THEO MÃI BƯỚC EM ĐI”.

Nhân ngày Nhà giáo Việt Nam, LQV xin gửi đến bạn đọc hai bài thơ – thực chất là cùng một tấm lòng yêu thương (“Tất cả vì học trò thân yêu” của người thầy và đạo lý “Tôn sư trọng đạo” của cậu học trò); nó thực sự thấm đẫm tình thầy trò của cụ Nguyễn Khoa Tịnh và người học trò xưa của ông – nay đã là Nhà nông học, Tiến sĩ Hoàng Kim – đúng như kỳ vọng cùng tiên đoán của mình.

Hà Nội, 16 giờ 04′ – ngày 18/11/2017

LQV,

Ơn Thầy

ƠN THẦY
Hoàng Kim
kính tặng thầy Mai Văn Quyền và quý Thầy Cô


Cha ngày xưa nuôi con đi học.
Một nắng hai sương trên những luống cày,
Trán tư lự, cha thường suy nghĩ, 
Phải dạy con mình như thế nào đây?

Cha mất sớm, bom thù rung mặt đất,
Cái chết giằng cha ra khỏi tay con,
Mắt cha lắng bao niềm ao ước,
Vẫn lo cho con đến phút cuối cùng.

Giặc giết cha, cha chưa kịp thấy,
Tương lai con đi, sự nghiệp con làm.
Cha có biết, luống cày cha bỏ dỡ,
Cha ngã xuống rồi trao lại tay con.

Trên luống cày này, đường cày con vững.
Bởi có dáng Thầy thay bóng cha xưa.
Hiểu mảnh đất máu đào cha nhuộm đỏ.
Thôi thúc tim con học tập phút giờ .

Chuyện cổ tích người lớn
CỤ MẠNH VIẾT VỀ BÁC
Hoàng
Kim

“Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh” Chương 7, cụ Mạnh viết về Bác Hồ thật hay. Tôi thường đọc lại. Nghề văn sử thời nay chép được hay và thật như vậy, đầy ắp tư liệu là thật giỏi và khéo lắm. Xin thành kính dâng nén tâm hương đưa tiễn Cụ. Cậu Cương ngọc trai bé của ông tôi trong Hoàng Gia Cương theo dòng thời gian cuối sách có ghi: “Văn muốn đạt tài hoa, tâm cần sáng, tứ cần sâu, năng gạn đục khơi trong văn mới tuyệt. Nghệ mong nên tuyệt tác, trí phải minh, công phải trọng, biết tầm sư học đạo nghệ càng tinh“; “CHÍ khí một hiền MINH, vạch lối, dẫn đường, gây nghiệp lớn hồi sinh đất nước. NGUYÊN  vẹn từng trụ GIÁP, xua Tây, trừ Mỹ, lập công đầu bảo vệ non sông”.

CỤ NGUYỄN ĐĂNG MẠNH VIẾT VỀ BÁC HỒ
(Trích Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh, chương Bảy)

Tôi được tận mắt thấy Hồ Chí Minh hai lần.

Lần thứ nhất sau Cách mạng tháng Tám. Sau cuộc khởi nghĩa tháng tám năm 1945, bố tôi đưa cả gia đình từ Thái Bình về thị xã Bắc Ninh. Tôi tiếp tục học cấp 2 ở trường Hàn Thuyên.

Một hôm được tin Hồ chủ tịch về Bắc Ninh. Tôi và mấy bạn học được nhà trường cử đi đón. Mỗi đứa được phát một lá cờ nhỏ bằng giấy, hễ Hồ chủ tịch đến thì vẫy cờ và hô khẩu hiệu chào mừng.

Chúng tôi đứng xếp hàng trước cửa phòng thông tin xã, nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh tới.

Ðợi một lúc thì có một chiếc xe ô tô con đỗ ngay mép đường, trước cửa phòng thông tin. Tôi thấy có hai anh cảnh vệ vọt ra trước, cầm lăm lăm tiểu liên, nhẩy lên đứng trên hai cái trụ của bức tường hoa thấp trước phòng thông tin. Hai anh lia mũi súng sang trái, sang phải, vẻ mặt căng thẳng.

Hồ Chí Minh bước ra sau. Quần áo Kaki. Giầy vải. Cầm batoong. Người gầy đen. Râu tóc cũng đen. Ông đứng lại ngay sát chúng tôi, nhưng không để ý gì đến bọn trẻ con này cả, tuy chúng tôi ra sức phất cờ và hô, “Hồ chủ tịch muôn năm !”

Ðứng lại một lát, liếc nhìn chung quanh một chút, mặt đầy cảnh giác, rồi ông đi rất nhanh vào phòng thông tin. Lưng rất thẳng, gầy nhưng cứng cáp, cử chỉ lanh lẹn – ấn tượng của tôi về Hồ chí Minh là như thế.

Hồi đó, ở Bắc Ninh, Việt Nam Quốc dân đảng hoạt đông khá mạnh. Ðã có những cuộc đụng độ vũ trang giữa lính Quốc dân đảng và Vệ quốc đoàn ở Thị Cầu. Chắc vì thế nên ông Hồ và các vệ sĩ của ông rất cảnh giác.

Lần thứ hai tôi được thấy Hồ chủ tịch là vào khoảng 1961, 1962 gì đó, hồi tôi công tác ở trường Ðại học sư phạm Vinh.

Ông Hồ vào Vinh. Người ta tổ chức cho ông gặp đồng bào ở một cái sân vận động của thị xã.

Họ dựng một cái kỳ đài bằng tre- có vẻ thô sơ thôi. Ông Hồ đứng trên đó với một số cán bộ tỉnh. Lúc hô khẩu hiệu, ông cùng vung tay hô như mọi người:

_ Ðảng Lao Ðộng Việt Nam muôn năm !

_ Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà muôn năm !

Ông Hồ vung tay rất cao.

Nhưng đến khẩu hiệu thứ ba:

_ Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm !

Ông Hồ cũng vung tay lên, nhưng chợt nhận ra họ hoan hô mình, vội rụt tay xuống.

Tôi theo dõi không bỏ sót một cử chỉ nào của ông cụ hôm ấy.

Ông Hồ bắt đầu nói chuyện với đồng bào.

Hồ Chí Minh không hề tỏ ra là người hùng biện. Nói chậm, ngắn, không lưu loát. Có chuyện lỡ miệng nói hớ, vội lảng sang ý khác. Tôi nhớ ông đang nói dở một câu tục ngữ, “Thanh cậy thế, Nghệ cậy..”thì vội ngừng lại và lảng sang ý khác. Có lẽ ông không muốn làm mất lòng người Nghệ Tĩnh chăng, vả lại, “cậy thần “là cậy thần nào, thần Hồ Chí Minh à? Tôi chắc ông nghĩ thế nên không nói tiếp câu ấy nữa.

Năm 1969, tôi chuyển ra công tác ở trường Ðại học Sư phạm Hà nội. Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác, Hoàng Dung thay nhau làm tổ trưởng tổ Văn học Việt Nam hiện đại. Các anh đều rất quan tâm đến việc nghiên cứu thơ văn Hồ Chí Minh nên thường tổ chức cho chúng tôi gặp những người hiểu biết về Hồ Chí Minh như Hoàng Văn Hoan, Lê Quảng Ba, Họa sĩ Diệp Minh Châu, Vũ Kỳ. Nhờ gặp các vị này, tôi được biết nhiều chuyện cụ thể về ông Hồ, trước hết là chung quanh sự kiện ông Hồ bị bắt ở Quảng Tây, Trung Quốc và viết Nhật Ký Trong Tù.

Ông Hồ về Pắc Bó đầu năm 1941 ngày 28/1. Tháng 8/1942 ông trở lại Trung Quốc để vận động các cơ sở cách mạng bên ấy ủng hộ Việt Minh và mua vũ khí về cho Việt Minh.

Ông Lê Quảng Ba cùng đi với ông Hồ. Ðến một địa điểm nào đó thuộc Quảng Tây thì gặp núi lở, một tảng đá văng vào chân Lê Quảng Ba. Ba bị đau, cố đi một cách khó khăn. Ðể động viên người đồng hành với mình, ông Hồ vừa đi vừa kể Chinh Phụ Ngâm. Vừa kể vừa giảng. Té ra xa nước ba mươi năm Hồ Chí Minh vẫn thuộc lòng Chinh Phụ Ngâm.

Nhưng Lê Quảng Ba càng đi càng đau. Ðến Tĩnh Tây thì phải nghỉ lại tại một cơ sở cách mạng. Hôm sau, ông Hồ tiếp tục lên đường. Cùng đi với ông có một thanh niên Trung Quốc tên Dương Ðào- tất nhiên cũng là một cơ sở cách mạng. Ðến xã Túc Vinh, huyện Ðức Bảo, tỉnh Quảng Tây thì bị bọn Hương cảnh Trung Quốc bắt (Ngày 27- 8- 1942)

Không phải ông Hồ không có giấy tờ hợp lệ. Hồ Chí Minh không thể sơ xuất như thế được. Hồ Chí Minh bị bắt vì khám trong người, cảnh sát Tàu phát hiện có rất nhiều đôla. Nghe nói hồi ở Pắc Bó, có người đã thấy ông phơi đôla cho khỏi ẩm mốc. Bây giờ qua Trung Quốc, ông đem đôla đi để mua vũ khí cho Việt Minh.

Nhưng cảnh sát Tàu cho là Hán gian, là gián điệp của Nhật lúc bấy giờ đang đánh Trung Quốc. Chỉ có gián điệp mới có đôla thôi chứ, người dân Trung Quốc bình thường làm gì có lắm ngoại tệ thế ! Ðiều này tác giả Ngục Trung Nhật Ký cũng đã nói rõ trong thơ của mình:

Ta người ngay thẳng, lòng trong trắng
Lại bị tình nghi là Hán gian
(Ðường đời hiểm trở)

Hôm nay xiềng xích thay dây trói
Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung
Tuy bị tình nghi là gián điệp
Mà như khanh tướng vẻ ung dung
(Ði Nam Ninh)

Các vị lãnh đạo Ðảng lúc bấy giờ ở Cao Bằng như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Hoàng Quốc Việt nghe tin cụ Hồ bị bắt, hoảng quá, cho người sang Tàu dò hỏi xem nó giam ở đâu, nhưng không tìm được. Qua mấy tháng bặt tin tức, các vị bèn quyết định lật bài ngửa: điện cho Mạc Tư Khoa và cho Tưởng Giới Thạch nói rõ đó là Nguyễn Ái Quốc, thủ lĩnh Việt Minh, đề nghị thả ra.

Biết không phải là Hán gian, các nhà chức trách Trung Hoa bèn chuyển Hồ Chí Minh sang chế độ nhà tù khác. Trong Nhật Ký Trong Tù, bài Bốn Tháng có thể coi là bản tổng kết giai đoạn đầu của thời gian 14 tháng ở tù vô cùng cực khổ của ông Hồ, “Sống khác loài người vừa bốn tháng. Tiều tụy còn hơn mười năm trời.”

Chuyển sang chế độ nhà tù mới, ông Hồ được tắm rửa, ăn uống khá hơn, thỉnh thoảng được đi dạo quanh nhà lao, đặc biệt được cung cấp rất nhiều sách báo. Tưởng Giới Thạch còn tặng ông một cuốn sách của mình. Ðiều này ông Trần Dân Tiên đã có nói nhưng không giải thích lý do vì sao. Ðiều đáng chú ý là, Nhật Ký Trong Tù có tất cả 113 bài tuyệt cú thì bài Bốn Tháng Rồi là bài thứ 103. Nghĩa là 10 tháng sau, tác giả chỉ làm thêm ba chục bài nữa thôi. Vì sao vậy? Vì Hồ Chí Minh chỉ làm văn chương khi tuyệt đối không có điều kiện làm chính trị, làm cách mạng. Mười tháng sau này, có điều kiện chuẩn bị cho cách mạng, lập tức ông dồn sức vào đấy: đọc sách báo, dịch tác phẩm “Tam dân chủ nghĩa “của Tôn Trung Sơn, đọc sách của Tưởng Giới Thạch tặng “Trung quốc đích mệnh vận”

Nguyên bản Nhật Ký Trong Tù đâu chỉ có thơ, ở cuối tập Nhật Ký còn có tới 20 trang ghi kín tin tức thời sự lấy từ các báo chí được cung cấp gọi là Ðộc báo lan.

Mới biết, viết bài Mở đầu (Khai Quyển) Nhật Ký Trong Tù, Hồ Chí Minh đã nói thật lòng mình:

Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày dài ngâm ngợi cho khuây
Vưà ngâm vừa đợi đến ngày tự do

Hồ Chí Minh được bọn Tàu Tưởng thả về nước không phải ngẫu nhiên, chắc ông phải khôn khéo thương lượng với chúng và với cánh Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam như thế nào đó, nó mới thả cho về nước.

Hôm tiễn cụ Hồ về nước, Hầu Chí Minh (Trong Nhật Ký Trong Tù, Hồ chí Minh gọi là Hầu chủ nhiệm (Chủ nhiệm cục chính trị đệ tứ chiến khu) cùng với Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam có tổ chức một cuộc liên hoan hẳn hoi (tháng 12- 1943). Trong liên hoan, họ có thử tài nhau bằng thách đối.

Nguyễn Hải Thần đưa ra một vế đối khá độc hiểm:

“Hầu Chí Minh, Hồ Chí Minh, lưỡng vị đồng chí, chí giai minh “

Ông Hồ xin đối :

“Nhĩ cách mệnh, ngã cách mệnh, đại gia cách mệnh, mệnh tất cách “

Mọi người tán thưởng. Hầu Chí Minh ca ngợi “Ðối hay lắm “.Còn Nguyễn Hải Thần thì cung kính nói, “Hồ tiên sinh tài trí mẫn tiệp, bội phục, bội phục “

Trong cuộc liên hoan, ông Hồ còn góp vui một tiết mục rất đặc biệt: nhảy điêụ Nga-la-tư, một điệu vũ dân gian rất khoẻ của Nga.

Trong Nhật Ký Trong Tù và hồi ký Vưà Ði Ðường Vừa Kể Chuyện, ông Hồ có nói, khi mới ra tù, “chân mềm như bún “, đi không được, phải tập leo núi rất khó nhọc, phải bò, phải lết mãi mới đi được. Vậy sao lại có thể nhảy điệu Nga- la – tư?

Suy ra ta có thể hiểu như thế này: từ khi biết ông Hồ là ông Hồ, không phải Hán gian, nhà chức trách Trung quốc cho ông được hưởng chế độ quản thúc. Nghĩa là chỉ không được ra khỏi vùng quản thúc thôi, còn thì có thể ra ngoài nhà tù để leo núi, tập đi, tập luyện mắt. (Cho nên mới có chuyện ở Liễu Châu, ông Hồ đi tắm sông, gặp tướng Tàu Trương Phát Khuê. Khoảng giữa tháng 9- 1943, sau một thời gian tập luyện, cuối cùng ông Hồ chẳng những đi vững mà còn trèo được núi. Ông cao hứng làm một bài thơ chữ Hán:

Vân ủng trùng sơn sơn ủng vân
Giang tâm như kính tịnh vô trần
Bồi hồi độc lộ Tây phong lĩnh
Nam vọng trùng dương ức cố nhân
(Vừa đi đường, vừa kể chuyện)

Bài thơ này cụ Hồ đã bí mật gửi về cho các đồng chí của mình ở Cao Bằng (Viết lên mép trắng của một tờ Quảng Tây nhật báo). Võ Nguyên Giáp trong tập hồi ký Những Chặng Ðường Lịch Sử cho biết, “Bữa đó tôi về cơ quan hội báo tình hình thì thấy anh Ðồng, anh Vũ Anh và anh Lã đang xem xét quanh một tờ báo. Các anh chuyển tờ báo và hỏi tíu tít:

_ Anh xem có đúng là chữ của Bác không?

Ðó là một tờ báo ở Trung quốc mới gửi về, trên mép trắng có mấy hàng chữ Hán viết tay. Tôi nhận ra ngay đúng là chữ của Bác. Bác viết, “Chúc chư huynh ở nhà mạnh khoẻ và cố gắng công tác, ở bên này bình an.

Phiá dưới lại có một bài thơ “

Như thế bài thơ này đã được làm từ khá lâu (9- 1943) trước cuộc liên hoan tiễn chân nói trên 3 tháng (12- 1943)

Sau này, Tô Hoài còn cho biết, trong cuộc liên hoan tiễn cụ Hồ về nước, hôm ấy còn có mặt nhà thơ Quang Dũng nữa. Lúc này Quang Dũng đang đi theo Nguyễn Tường Tam, Nguyễn Hải Thần.

Về tập Nhật Ký Trong Tù, có người nói ông Hồ đánh mất ngay sau khi ra khỏi tù. Thực ra không phải.

Ngày 16- 9- 1943, ông Hồ được trả lại tự do, cuốn Nhật Ký Trong Tù vẫn được ông giữ cẩn thận.

Ngày 14 – 9 – 1955, ông đưa tác phẩm này cho ông Nguyễn Việt, trưởng ban tổ chức triển lãm cải cách ruộng đất tại phố Bích Câu. Ông Hồ nói, “Tôi có quyển sổ tay cách đây mười mấy năm còn giữ được đến bây giờ, các cô, các chú xem có triển lãm được thì dùng. “Nguyễn Việt đưa vào triển lãm, bày ở phòng “Ngọn đuốc soi đường của Ðảng Cộng sản Ðông Dương “.

Nhật Ký Trong Tù hiện được lưu trữ ở Bảo tàng cách mạng Việt Nam.

Vào năm 1970, 1971 gì đó, anh Huỳnh Lý được biết Họa sĩ Diệp Minh Châu từng sống với Hồ chủ tịch sáu tháng ở Việt Bắc thời kháng chiến chống Pháp, nên tổ chức cho chúng tôi gặp họa sĩ ở nhà riêng.

Hai vợ chồng cùng là họa sĩ và điêu khắc. Nhà cửa hết sức bề bộn, có thể nói là tanh bành. Ðất sét, thạch cao vung vãi. Nước đổ lênh láng trên nền nhà. Khắp nơi lăn lóc những đầu người: đầu Nguyên Hồng, đầu Nguyễn Tuân…bằng đất sét.

Cách trò chuyện của Diệp Minh Châu cũng vậy. Chuyện nọ xọ chuyện kia, có lúc lại tạt ngang giới thiệu tranh của vợ.

Ở đây tôi chỉ lọc ra những gì anh nói về Hồ Chí Minh.

Diệp Minh Châu ở với Hồ chủ tịch sáu tháng ở chiến khu Việt Bắc trước khi ra nước ngoài học tiếp về hội họa, điêu khắc. Hằng ngày, anh cùng ăn với Hồ chủ tịch.

Có một bữa, đến giờ ăn rồi mà mãi không thấy ông Hồ ra. Diệp Minh Châu ngồi đợi. Cuối cùng ông cũng ra, nhưng lại châm điếu thuốc hút, nghĩa là chưa ăn ngay. Thấy Châu ngồi đợi, ông bảo, “Chú cứ ăn trước đi “Tất nhiên Châu không dám, vẫn đợi. Một lát, ông Hồ nói thủng thẳng với họa sĩ, “Về sau chú làm nghề gì thì làm nhé, đừng làm chủ tịch nước, khổ lắm ! “

Diệp Minh Châu không bình luận gì. Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh vừa qua một cuộc họp trung ương, chắc có điều gì không thuyết phục nổi các đồng chí của mình: người ta đang sùng bái Staline, Mao Trạch Ðông, không chịu nghe Hồ Chí Minh, chắc thế. (Staline vốn không coi Hồ Chí Minh là cộng sản chuyên chính. Ông Phạm Văn Ðồng có lần nói với anh Hoàng Tuệ (khi hai người cùng công tác ở Liên xô): năm 1950, Staline triệu Hồ Chí Minh sang gặp, ông ta không gọi Hồ Chí Minh là đồng chí (tavarich).

Ở rừng Việt Bắc vào những đêm trăng đẹp, ông Hồ thường rủ Diệp Minh Châu ra suối câu cá. Vưà câu vưà trò chuyện. Có lần ông nói về Nhật Ký Trong Tù : “Hồi ấy bị giam trong tù buồn quá, phải nghĩ ra cách gì để giải trí. Có ba cách: một là nằm ngửa đếm ngói trên mái nhà, đếm hết lại phân loại ngói lành, ngói vỡ. Hai là săn rệp ở những khe ván sàn xà lim. Ba là làm thơ “. Thì ra đối với ông Hồ, làm thơ cũng chỉ là một trò giải trí như đếm ngói và săn rệp vậy thôi. Thảo nào có ai hỏi ông về Nhật Ký Trong Tù như một tập thơ, ông đều từ chối không trả lời, vì coi đó chẳng phải thơ phú gì và bản thân ông cũng không phải nhà thơ. Chẳng qua ở tù buồn quá, không biết làm gì, thì ghép vần chơi, thế thôi (Trong cuốn sách Vừa đi đường vừa kể chuyện,ông đã nói như thế).

Năm 1965, Mỹ cho không quân ra đánh phá miền Bắc. Cầu Hàm Rồng, Thanh Hoá, là một trọng điểm oanh tạc của chúng. Anh chị em dân quân Nam Ngạn, Hàm Rồng, phối hợp cùng với pháo binh tải đạn và bắn máy bay giặc. Nổi lên có hai nữ dân quân được tuyên dương công trạng xuất sắc: Ngô Thị Tuyển và Nguyễn Thị Hằng.

Năm ấy, tôi phụ trách một đoàn sinh viên Ðại học Sư phạm Vinh ra thực tập ở trường Lam Sơn, Thanh Hoá, sơ tán ở ngoại ô thị xã. Tôi đưa mấy sinh viên Văn ra gặp Nguyễn Thị Hằng ở nhà riêng. Hằng là một cô gái quê mà rất trắng trẻo, cao ráo. Cô cho xem bức hình chụp mặc quân phục trông rất đẹp đẽ,oai phong. Cô khoe vưà được ra Hà Nội gặp Bác Hồ. Lần đầu tiên ra Hà Nội, đi đâu cũng có một anh cảnh vệ hay công an đưa đi. Hành trình qua rất nhiều chặng. Ðến mỗi chặng, anh dẫn đường lại bảo, cô ngồi đây, Bác xuống bây giờ.

Một lát ông Hồ tới. Ông không vội hỏi han gì về thành tích chiến đấu của Hằng. Câu hỏi đầu tiên của vị chủ tịch nước là, “Cháu có buồn đi tiểu, Bác chỉ chỗ cho mà đi.”

Câu chuyện của Nguyễn Thị Hằng về Chủ tịch Hồ Chí Minh hôm đó, tôi nhớ nhất chi tiết này. Chi tiết rất nhỏ nhưng nói rất nhiều về con người Hồ Chí Minh.

Tôi nghĩ đến câu nói của một nhân vật của Dostoievsky trong cuốn “Anh em nhà Karamadôp “: “Tôi càng yêu nhân loại nói chung thì lại càng ít yêu con người nói riêng, tức tách bạch ra từng người riêng rẽ. Những lúc mơ ước, nhiều lúc tôi đã có dự định say mê phụng sự nhân loại (..) thế nhưng tôi lại không thể sống chung với bất kỳ ai trong một căn phòng.”. Ðó là loại người mà Dostoievsky gọi là chỉ có “tình yêu mơ mộng “chứ không có tình yêu thực sự.

Ông Hồ một mặt yêu nhân loại rộng lớn, mặt khác, quan tâm rất cụ thể thiết thực đến những con người cụ thể quanh mình.

Anh Trần Việt Phương có kể một câu chuyện khác cũng tương tự về ông Hồ. Trước căn nhà sàn của chủ tịch luôn có một anh bộ đội đứng gác. Thương anh lính trẻ đứng gác lâu chắc đói bụng, ông cụ đem một quả chuối xuống cho anh ta ăn. Anh lính không dám ăn, vì như thế là vi phạm luật nhà binh. Ông Hồ nói, “Vậy để bác gác cho cháu ăn, không sợ “.

Hồ Chí Minh có điều này cũng rất quý: trong cách ứng xử với mọi người, tỏ ra rất lịch sự, nghĩa là rất tôn trọng con người. Hồi kháng chiến chống Pháp, Họa sĩ Dương Bích Liên được cử đến ở với ông Hồ để vẽ. Sau một thời gian, Tố Hữu đến xem tranh, cho là không đạt. (Chắc là Dương Bích Liên thích vẽ Hồ Chí Minh trong sinh hoạt đời thường, không thể hiện được tư thế lãnh tụ chăng?). Tố Hữu quyết định cho Dương Bích Liên thôi việc và mời đi luôn. Khi ông Hồ biết chuyện này thì Dương Bích Liên đã đi rồi. Hồ Chí Minh không bằng lòng với cách đối xử như thế. Ông cho người đuổi theo mời họa sĩ trở lại để có lời với anh và đưa tiễn đàng hoàng.

Tôi nghĩ Hồ Chí Minh thực bụng, không hề coi mình là ông thánh, nghĩa là chỉ muốn được là người với những nhu cầu như của mọi người bình thường. Cũng có thể trong tư cách nhà chính trị lại khác. Vì nhu cầu chính trị, có khi Hồ Chí Minh cũng phải “diễn “những điều trái với bản chất của mình. Vì thế tôi nói, thực bụng ông Hồ không thích làm thánh nhân chút nào. Thí dụ, mệt cũng muốn nghỉ. Tố Hữu có lần đi với ông, thấy một khẩu hiệu trên tường: “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm ! “, ông nói, “Hồ Chí Minh chỉ muốn nằm ! “

Ông Hồ cũng thích hút thuốc lá. Và chỉ quen hút thuốc lá ngoại, thuốc lá Mỹ. Ông đã bị chi bộ phê bình và bắt hút thuốc lá nội. Sau thấy ông ho quá, lại cho hút thuốc ngoại như cũ. Anh Hoàng Tuệ kể với tôi chuyện này: hồi kháng chiến chống Pháp, đi công tác ban đêm, tình cờ anh đi cùng với một đoàn người chở thuốc lá ngoại từ vùng tề cho cụ Hồ, có bộ đội đi kèm để bảo vệ.

Họa sĩ Dương Bích Liên, hồi cùng ở với ông Hồ ở Việt Bắc, thấy ông thường hút thuốc lá ngoại, uống rượu Tây và uống sữa tươi. (Người ta nuôi một con bò để lấy sưã cho ông.)

Theo Trần Đăng Ninh (Tô Hoài kể lại), ông Hồ ở phủ chủ tịch, thỉnh thoảng lại đóng bộ complet, cravate, chống ba toong đi dạo một lúc trong khuôn viên cho đỡ nhớ- hẳn là nhớ sinh hoạt hồi ở Paris.

Hà Huy Giáp : một hôm linh mục Phạm Bá Trực gặp ông Hồ, bảo ông là surnature (phi thường). Ông Hồ nói,”Chúng mình là contrenature (bất bình thường)”.

Hà Huy Giáp có một thời gian ở gần Hồ chủ tịch. Ông kể lại chuyện hồi năm 1950, ông mới lấy vợ được một năm thì bị điều ra công tác tại Việt Bắc và ở với cụ Hồ. Ông hỏi ông Hồ, “Sao Bác không lấy vợ mà chịu được?”Ông Hồ nói, “Mình cũng như các chú thôi, từ rốn trở xuống là 18 tuổi. Từ rốn đến cổ là 40 tuổi. Từ cổ đến đầu là 60 tuổi, Kinh nghiệm của dân ta là lao động suốt ngày, mệt thì ngủ luôn. Không có việc gì thì đổ trấu ra xay. Buồn ngủ hãy ngủ. Tỉnh ngủ, dậy liền, đừng có nằm mãi trong chăn. Ðừng mặc đồ láng, mềm, mỏng. Nên mặc quần aó vải. Có cán bộ lên công tác ở Việt Bắc, rỗi việc, ngồi tán gẫu. Bác bảo cởi lạt sàn nhà ra, sau đó lại bảo buộc lại. Ðể khỏi “nhàn cư vi bất thiện”.

Các anh Huỳnh Lý, Nguyễn Trác và Hoàng Dung còn tổ chức cho chúng tôi gặp ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của cụ Hồ.

Cuộc gặp Vũ Kỳ không giúp tôi biết gì thêm về Hồ Chí Minh, ấn tượng để lại chỉ là hình ảnh của chính Vũ Kỳ. Ông bắt chước tác phong của cụ Hồ từ cách ăn mặc, cách nói năng. Có cái áo Tôn Trung Sơn khoác ngoài không mặc lại vắt lên vai. Ði guốc. Câu đầu tiên ông hỏi chúng tôi, “Các đồng chí có bao nhiêu nữ?”.

Anh Nguyễn Khải có lần gặp Vũ Kỳ cũng có nhận xét y như thế : để râu dài, áo cánh lụa. Ði guốc. Cầm quạt phe phẩy…

Tôi nghĩ bụng, đã là gia nhân thì bao giờ cũng là gia nhân. Gia nhân của người thường hay gia nhân của vua chúa thì cũng thế.

Về chuyện làm thơ của Hồ Chí Minh, tôi vẫn cho rằng ông Hồ có ý thức sáng tác hai loại : một là loại thơ tuyên truyền thường dùng lối ca vè, cốt minh họa đường lối chính trị. Những bài thơ chúc tết, mừng xuân cũng thuộc loại này. Thơ này không sáng tác theo quy luật nghệ thuật. Hai là loại thơ nghệ thuật diễn đạt tình cảm, cảm xúc thẩm mỹ. Loại này ông cốt làm để giải trí sau những giờ làm việc căng thẳng, hoặc ở trong nhà tù, khi hoàn toàn không có cách gì để làm việc cho cách mạng.

Nhiều thằng ngu hoặc cố tình không hiểu đã cố tình phê phán tôi về sự phân biệt này: thơ Bác Hồ, thơ nào chả là thơ nghệ thuật và thơ Bác là thơ cách mạng sao lại bảo là để giải trí.

Tôi cho rằng chính cụ Hồ có ý thức phân biệt như vậy.

Người ta thường kể chuyện này để ca ngợi đức tính giản dị, khiêm tốn của cụ Hồ khi làm những bài thơ tuyên truyền, cụ Hồ thường chuyển cho nhiều người xem, kể cả chú liên lạc, để nhờ góp ý sữa chữa cho thật dễ hiểu, dễ nhớ đối với mọi người. Thế là thơ tuyên truyền chứ còn gì nữa. Tuyên truyền thì cốt nhất là mọi người đều dễ hiểu, dễ nhớ, thế thôi. Nghệ thuật gì mà.

(đọc thêm BBCVietnamese.com: Xung quanh ‘Hồi ký Nguyễn Đăng Mạnh‘)

Bài viết mới
Nguyễn Trọng Tạo nhịp đồng dao;
Tắm tiên ở Chư Jang Sin.

KHO BÁU ĐỈNH TUYẾT SƠN
Hoàng Kim

Bí mật kho báu trên đỉnh Tuyết Sơn góp phần giải mã ba tồn nghi lớn của lịch sử: Vì sao Trung Quốc quyết không cho Tây Tạng tự trị? Lý Tự Thành và kho báu đời Minh? Bí mật ngoại giao thời vua Càn Long với nhà Tây Sơn? Tuyết Sơn phi hồ là bộ tiểu thuyết đầu tiên trong 14 bộ tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Kim Dung, một trong ba văn hào được nhiều người đọc nhất của Trung Quốc đương đại. Tác phẩm Tuyết Sơn phi hồ của Kim Dung là một trong những đỉnh cao văn chương Trung Hoa và Thế Giới đã chuyển thể nghệ thuật điện ảnh và được nhiều nhà văn tài năng ao ước chinh phục, . Bài viết này đăng trên trang Nghiên cứu lịch sử ngày 1.8. 2016; được bảo tồn và phát triển tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kho-bau-dinh-tuyet-son/

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter

Video yêu thích

NHẠC THIỀN – TĨNH TÂM – AN NHIÊN TỰ TẠI
Việt Nam quê hương tôi
Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Bến Nhà Rồng Bến Nghé



Tết Việt Tiết Lập Xuân
Bến Nhà Rồng Bến Nghé
Ông bà và con cháu
Ân tình đất phương Nam

BẾN NHÀ RỒNG BẾN NGHÉ

Bến Nhà Rồng là Bến Nghé xưa, là mặt trước của Gia Định thành, một thương cảng sầm uất nổi tiếng thời nhà Nguyễn tới thời thuộc Pháp thành thủ phủ của Gia Định xưa, trên bến sông Bến Nghé (Ngưu Chữ, Tân Bình). Nơi đây lưu dấu chân Chủ tịch Hồ Chí Minh, Người khai sinh ra Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Nước Việt Nam ngày nay. Bác Hồ ngày ấy, 5/6/1911, là người thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đến bến cảng Nhà Rồng, xuống tàu Amiral Latouche Tréville chính thức ra đi tìm đường cứu nước để đến năm 1941 Người đã trở về Việt Nam tại tỉnh Cao Bằng, lãnh đạo nhân dân Việt Nam đoàn kết kháng chiến kiến quốc, giành độc lập, tự do, đi tiếp con đường thống nhất cho Tổ quốc, quê hương. Ngày nay Bến Nhà Rồng Bến Nghé là Bảo tàng Hồ Chí Minh, chi nhánh TP Hồ Chí Minh, tọa lạc tại số 1 Nguyễn Tất Thành, Phường 12, Quận 4, thành phố Hồ Chí Minh, là một trong những địa danh lịch sử nổi bật biểu trưng cho nước Việt Nam mới, nơi bảo tồn di sản Ngọc phương Nam sử thi Việt Nam và thời đại Hồ Chí Minh. Đây là điểm nhấn lý tưởng cho sự học tập giao lưu ngôn ngữ, văn hóa, xã hội, địa chính trị, kinh tế, lịch sử và du lịch sinh thái Việt, xem tiếp https://hoangkimvn/wordpress.com/category/bến nhà rồng bến nghé

Gia đình chúng tôi nhân Chủ nhật ngày Cách Mạng Tháng Tám năm nay (20.8.2023), đã đưa các cháu đi thăm Bến Nhà Rồng Bến Nghé. Tại đây, lắng nghe những bài học lịch sử lắng đọng để thấu hiểu và tâm đắc. Cách Mạng Tháng Tắm Việt Nam năm 1945 nổ ra chỉ trong vòng 15 ngày do một Đảng mới 15 tuổi lãnh đạo nhưng đã lan rộng cả nước, mở ra một thắng lợi to lớn: Giành được độc lập dân tộc trong thời cơ ngàn năm có một; Thành lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, tạo nên đất nước ngày nay; Cuộc cách mạng đầu tiên thắng lợi trên một nước thuộc địa, rất nhân văn và ít tốn kém nhất thời đại. Tinh thần ấy đã thành biểu tượng điển hình cổ vũ cho nhiều quốc gia trên thế giới đứng lên giành độc lập dân tộc.

Bến Nhà Rồng Bến Nghé là địa danh di sản, báu vật quốc gia .Việt Nam Dư Địa Chí cần tìm tòi và tìm hiểu sâu hơn những phát hiện quý dưới đây .

1) Bản đồ Bến Nhà Rồng Bến Nghé hướng Chính Đông Long Hải, Tết Việt Tiết Lập Xuân, Việt Thường La Bàn

2) Bản đồ phường Bến Nghé ngày nay so sánh với bản đồ cổ thành Gia Định xưa

3) Bản đồ sông ngòi đường sá thành Gia Định và thế trận tam tuyến xưa với hệ thống thế trận kinh tế xã hội văn hóa an ninh quốc phòng toàn dân thành phố Hồ Chí Minh ngày nay

3) Bản đồ lược khảo sông ngòi và đường sá thành Gia Định xưa và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay trong thế trận quốc phòng toàn dân

4) Hải Phòng6 , Núi Thần Đinh Quảng Bình và Thành phố Hồ Chí Minh8 là thiên tượng Bắc Đẩu trong trục Thiên An huyền thoại, gồm: Ulan Ude 1, Ulan Bato2; Trùng Khánh3, Quý Dương4 , Bách Sắc5, Hải Phòng6, Núi Thần Đinh7, Thành phố Hồ Chí Minh8 , Băng Đun ((. Sự xem xét giải mã ẩn ngữ Cao Biền trong sử Việt 8 tích truyện cổ kỳ lạ chứa đựng và lưu dấu những thông tin của bậc danh tướng, đại sư, thầy địa ly thời bình minh Việt

5) Việt Nam đối thoại biển

6) Việt Nam dư địa chí: Tỉnh Gia Định địa phương chí (trích) trang 727; Tiểu giáo trình địa lý Nam Kỳ (Trương Vĩnh Ký) trang 57; Ký ức lịch sử về Sài Gòn và vùng phụ cận (Trương Vĩnh Ký) trang 97; Gia Định phong cảnh vịnh (Trương Vĩnh Ký) trang 129 Thời nhà Nguyễn, sông Bến Nghé được khắc trên Cao đỉnh, đặt trên đường thần đạo từ Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu tương ứng với Cao Hoàng đế Gia Long

7) Báo Thanh Niên: Sông Bến Nghé trên cửu đỉnh triều Nguyễn là sông nào?

8) Báo Người Lao Động Bến Nhà Rồng và dấu ấn ở thành phố mang tên Bác

9) Sài Gòn xưa và nay
Dỡ bỏ “quan thì xử theo lễ, dân thì chịu hình pháp” https://www.youtube.com/shorts/PGzAaYUeo0c

Bến Nhà Rồng Wikipedia Tiếng Việt

Chạy giặc 
Nguyễn Đình Chiểu

Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ bày chim giáo dác bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước ,
Đồng Nai tranh ngòi nhuốm màu mây
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nữ để dân đen mắc nạn này?

Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc


LỚP 10A TT ĐHNN2 HÀ BẮC
Kính chào thầy bạn thân thương
DẠY VÀ HỌC & Lớp 10A TT ĐHNN2 bảo tồn và phát triển hệ thống thông tin
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lop-10a-tt-dhnn2-ha-bac
#dayvahoc #vietnamhoc; #cltvn; #cnm365; #Thungdung; #đẹpvàhay

Dấu xưa thầy bạn quý;
Hà Nội mãi trong tim;
Thăm trường xưa Hà Bắc;
Đến Kiếp Bạc Côn Sơn;

Vào Tràng An Bái Đính;
Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng;
Hồ Ba Bể Bắc Kạn;
Lên Việt Bắc điểm hẹn;

Về Việt Bắc nhớ Người;
Bản Giốc và Ka Long;
Thăm Hoa Lư Cúc Phương;
Món ngon ở Ninh Bình;

Đất Mẹ vùng di sản;
Trường tôi nôi yêu thương;
Huế di sản thế giới;
Việt Nam quê hương tôi.

(Bấm vào mỗi hàng để xem ảnh; những chuyến đi về nguồn chưa thấy ảnh ở 1-15 sẽ có ở mục 16) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lop-10a-tt-dhnn2-ha-bac/

Ảnh Quý Bà 10A TT thi áo dài Dấu xưa thầy bạn quý Hà Nội mãi trong tim ngày Nhà Giáo Việt Nam 20 11 2022 được sinh viên Nông Lâm bình chọn ảnh đẹp giải nhất (Chào ngày mới 20 tháng 11 https://cnm365.wordpress.com/2022/11/20/chao-ngay-moi-20-thang-11/)

DẤU XƯA THẦY BẠN QUÝ
Lưu ảnh theo dòng thời gian

MĂNG ĐEN
Bạch Ngọc Hoàng Kim

Măng Đen
Ơi Măng Đen
Sương sớm
Rừng khuya
Thật khó quên
Chốn xưa
thăm thẳm
thời gian khó
Tỉnh thức
mà sao
ngấn lệ nhoèn …

NHỚ TÂN CẢNH ĐĂK TÔ
Bạch Ngọc Hoàng Kim


Ngựa già quanh máng cỏ
Nhớ hoài bao tháng năm
Người lính khoai sắn lúa
Đường xuân nuôi chí bền.


(Cảm ơn Nam Vlog, ảnh trích xuất video https://youtu.be/subw8tzZRAE với https://youtu.be/2IzEAGCpl0o và Truyền hình Kon Tum LỄ KỶ NIỆM 50 NĂM CHIẾN THẮNG ĐĂK TÔ – TÂN CẢNH https://www.youtube.com/live/YwEDOb78k0o?feature=share yêu thương ngày nhớ người thân 27 tháng 7 https://cnm365.wordpress.com/category/cnm365-cltvn-27-thang-7

NHỮNG BÀI THƠ KHÔNG QUÊN
Hoàng Kim

Nhân dân ta, dân tộc ta, non sông đất nước ta đời đời nhớ ơn những người con trung hiếu đã hiến thân mình cho Tổ Quốc. Tấm ảnh Bác Hồ nghiêm trang, lặng lẽ, tĩnh lặng trong lòng của chúng ta thật nhiều điều. Có những khoảng lặng trời đất thấu lòng người, cả dân tộc ta cùng hướng về Ngày Thương Binh Liệt Sĩ .

Viếng mộ cha mẹ”; “Em ơi can đảm lên”; “Mẹ”; “Ba nén hương”; “Thư của người ra trận”; “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng“; “Hoàng Trung Trực đời lính“; “Quảng Bình đất Mẹ ơn Người“; “Linh Giang sông quê hương“; “Lời thề trên sông Hóa“; “Thắp đèn lên đi em”; “Nhớ tháng bảy mưa ngâuNhững bài thơ không quên“.

Bài thơ “Viếng mộ cha mẹ” của đại tá Hoàng Trung Trực rút trong tập thơ “Dấu chân người lính”. “Em ơi can đảm lên” là thơ thầy Nguyễn Khoa Tịnh; “Hoàng Ngọc Dộ khát vọng” là di cảo thơ anh hai thầy giáo Hoàng Ngọc Dộ, người đã thay cha mẹ mất sớm dìu dắt các em.. “Hoàng Trung Trực đời lính” có trường ca ‘Dấu chân người lính’; “Mẹ” là thơ Tô Hoàn, rút trong “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” tái bản tháng 7 năm 2000, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành. “Ba nén nhương” là bài thơ của nhà thơ thương binh Hoàng Cát đăng trên báo và trang thơ Nguyễn Trọng Tạo.”Thư của người ra trận” là bài thơ người lính vô danh do anh Lê Trung Xuân đọc năm 1971 và Hoàng Kim chép lại theo trí nhớ. Bốn người bạn Xuân, Chương, Trung, Kim đều cùng là sinh viên đại học nhập ngũ tháng 9 năm 1971. Chúng tôi cùng trong một tổ chiến đầu bốn người. Hai anh Xuân và Chương đều hi sinh năm 1972 tại Quảng Trị, còn Phạm Huy Trung và Hoàng Kim trở về trường cũ sau ngày đất nước thống nhất . Anh Xuân ra đi đã mang theo bí mật của bài “Thư của người ra trận” mà cho đến nay chúng tôi vẫn chưa biết rõ ai là tác giả. “Quảng Bình đất mẹ ơn người”; “Linh Giang sông quê hương”; “Lời thề trên sông Hóa”; “Thắp đèn lên đi em”; “Nhớ tháng bảy mưa ngâu” là thơ Hoàng Kim.

MỪNG GIÁNG SINH ĐẾN SỚM

Merry Christmas comes early
Travel to Vietnam with love
I go to have fun and experience
You come to visit a gentle place.

Mother and child study together
Husband and wife clean the garden
She followed her grandchildren to dance and sing.
Song of reunion season


see more https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/mung-giang-sinh-den-som

Trời dịu nắng Nghinh Phong





Nhà thầy Điền số 7 ngõ 246 đường Xuân Bắc quận Bắc Từ Liêm Hà Nội; ĐT 0983410548

Trên là tháp Đại giác nơi Đức Phật thành Phật

Tháp chuyển pháp luân. Nơi Đức Phật dạy bài pháp đầu tiên

Vườn Lâm Tỷ Ni nơi Đức Phật đản sinh

Nơi Đức Phật nhập Niết Bàn. Gọi là Tứ đại đồng tâm. Nơi sinh – Nơi thành Đạo- Nơi thuyết pháp đầu tiên ( gọi là nơi chuyển pháp luân, hình thành Tam bảo)- Nơi nhập Niết bàn

KS Trịnh Đình Lũy, Thanh Hóa. Sinh ngày 7 tháng 5 năm 1945; Nơi sinh xã Định Hải huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; Nơi ở hiện nay số nhà 22 ngõ 216, đường 10/6, khu 4, thị trấn Quán Lào, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa; ĐT 0904429108

CHÚC MỪNG BÁC VUI KHỎE
Hoàng Kim
mừng bác Hoạch
Mừng Bác tròn nhiệm vụ
An nhiên vui tuổi già
Đường xuân đời quên tuổi
Thầy bạn trong lòng ta
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lop-10a-tt-dhnn2-ha-bac/

KS CVC Nguyễn Quang Hoạch, Kon Tum: sinh ngày 20 tháng 8 năm 1947; nơi sinh Sơn Lễ, Hương Sơn, Hà Tĩnh; Nơi ở hiện nay thôn 6, xã Đăk Cấm, TP Kon Tum, tỉnh Kon Tum; nguyên cán bộ định canh định cư, tỉnh Kon Tum; Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng năm 2022; SĐT 0326709568

KS CVC Đinh Thế Lữ, Ninh Bình: Sinh ngày 1 tháng 5 năm 1950, Sinh quán xã Ninh Khang huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay 4A xã Đông Sơn thành phố Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, Nguyên Uỷ viên Ban Chấp Hành Trung Ương Hội Làm Vườn Việt Nam ; Ủy viên BCH LHHKH&KT, PCT TT Hội Làm Vườn tỉnh Ninh Bình; Huy Hiệu :45 năm tuổi Đảng (hiện 47 tuổi Đảng) Nguyên CVC Sở Nông nghiệp & PTNT tỉnh Ninh Bình; được tôn vinh trí thức tiêu biểu năm 2015; ĐT. 0368232355 & 0912383292

Lê Quang Vinh Thanh Hóa: Ngày sinh 20 tháng 10 năm 1952; Nơi sinh xã Hoằng Tiến, Huyện Hoằng Hoá; Nơi ở hiện nay phố 1, thị trấn Thống Nhất, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá; nguyên Bí thư Đảng uỷ, Phó Giám Đốc Nông trường Thống Nhất, Thanh Hoá; ĐT 0986932782

KS Nguyễn Huy Ngữ Thanh Hóa:Sinh ngày 4tháng 6 năm 1950 Nơi sinh thôn 2 Yên trường, Yên Định, Thanh Hóa[ Nơi ở hiện nay khu phố 3 thị trấn Vân Du, Thạch Thành, Thanh Hóa; Nguyên cán bộ Phòng Quản lí Sản xuất Nông trường Vân Du;42 năm công tác; Huy hiệu 45 năm tuổi Đảng; ĐT: 0348654730

Nguyễn Thị Thanh TP Huế: Sinh ngày 23 tháng 12 năm 1958; Nơi sinh Đỗ Thượng, Quang Vinh, Ân Thi, Hưng Yên; Nơi ở hiện nay 53 Trần Nguyên Đán, TP.Huế. Điện thoại: 0914078930; Nguyên là cán bộ giảng dạy của Trường. Nguyên phó Trưởng phòng Khoa học & Hợp tác Quốc tế và Đào tạo Sau Đại học Trường ĐHNL Huế

KS Đỗ Thị Chắt Bình Dương: Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1958; Nơi sinh Chương Dương, Đông Hưng, Thái Bình; Nơi ở hiện nay 317, Nguyễn Tri Phương, Chánh Nghĩa, Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương; Nguyên cán bộ Ngân hàng Thủ Dầu Một, Bình Dương; ĐT: 0985 935 957

PGS TS Phạm Thị Vượng Hà Nội: Sinh ngày 5 tháng 11 năm 1959; Nơi sinh Kim Thành Hải Dương: Nơi ở hiện nay tổ dân phố số 5 phố Lê Văn Hiến, phường ĐứcThắng, Bắc Từ Liêm, Hà Nội; Nguyên Viện trưởng Viện Bảo vệ Thực vật; ĐT: 091 2011940

KS. Trần Thị Bích Vân TP. Hồ Chí Minh: Sinh ngày 3 tháng 10 năm 1959; Nơi sinh xã Yên Phong. Huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay 564 đường Lê Hồng Phong phường 10 quận 10 TP. Hồ Chí Minh; nguyên cán bộ Viện Quy hoạch và Thiết kế Nông nghiệp Việt Nam (Phân Viện QHTKNN Nam Bộ, tại TP Hồ Chí Minh; ĐT 0988276306.

KS Trần Thị Hoan TP Nam Định: Sinh ngày 3 tháng 12 năm 1959; Nơi sinh xã Mỹ Phúc huyện Mỹ Lộc TP. Nam Định; Nơi ở hiện nay 163 đường Trần Thái Tông, phường Lộc Vượng, TP Nam Định; Nguyên cán bộ công viên Công ty Công trình Đô thị Nam Định; ĐT 0915590693

ThS Nguyễn Thị Thuận TP Hồ Chí Minh: Ngày sinh 20 tháng 11 năm 1958; Nơi sinh xã Lê Lợi, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình; Nơi ở hiện nay số nhà 504/24/3 Nguyễn Văn Quá, quận 12, TP. Hồ Chí Minh; Nguyên cán bộ nghiên cứu Công ty Cổ phần Giống Cây trồng Miền Nam (SSC); ĐT 0987877648,

KS Trần Thị Nguyệt, Nghệ An. Sinh ngày 15 tháng 9 năm 1953 Sinh quán xã Lưu Sơn huyện Đô Lương tỉnh Nghệ An; Nơi ở hiện nay thôn Bãi Phú, xã Đỉnh Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An; nguyên Phó Giám Đốc Nông trường Bãi Phú huyện Anh Sơn tỉnh Nghệ An, 47 năm tuổi Đảng; ĐT 0334559674

ThS, Lê Công Lương, Thanh Hóa..Sinh ngày 5 tháng 3 năm 1957; Sinh quán Thọ Vực, Triệu Sơn, Thanh Hoá; Nơi ở hiện nay Thọ Vực, Triệu Sơn, Thanh Hoá; Nguyên Trưởng Trạm BVTV huyện Triệu Sơn; 37 năm tuổi Đảng; ĐT: 0348654730

KS Đào Trọng Toàn, Nam Định: Sinh ngày 15 tháng 10 năm 1956; Sinh quán thôn Bùi Trung, xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; Nơi ở hiện nay số nhà 55 Trần Huy Liệu, Thị trấn Gôi, huyện Vụ Bản, tinh Nam Định; Nguyên trưởng phòng NN& PTNT huyện Vụ Bản; 30 năm tuổi Đảng; ĐT: 091 5194770

KS Trần Văn Hạnh, Hải Dương: Ngày sinh 28 tháng 8 năm 1956; Sinh quán tại xã An Thượng TP Hải Dương, tỉnh Hải Dương; Nơi ở hiện nay xã An Thượng TP. Hải Dương; nguyên Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Hải Dương; ĐT 0912055112

Kỹ sư GVCC Nguyễn Văn Tân, Lâm Đồng: Sinh ngày 1 tháng 2 năm 1953; Sinh quán làng Bồng Quỹ, xã Yên Phong, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; Nơi ở hiện nay 25 Nguyễn Thái Bình, phường 2 Bảo Lộc tỉnh Lâm Đồng Nguyên Trưởng phòng Đào tạo, Trường Cao đẳng Công nghệ & Kinh tế Bảo Lộc; 45 năm tuổi Đảng; Huân chương kháng chiến hạng 3; ĐT: 0918007802

KS Lê văn Khang Hà Nội: sinh ngày 2 tháng 9 năm 1952; Nơi sinh thôn Kim Bài, thị trấn Kim Bài,Thanh Oai, Hà Nội; Chỗ ở hiện nay 54 Tôn Đức Thắng, phường Cát Linh, quận Đống Đa , Thủ đô Hà Nội; đã công tác tại Công ty Thương mại và XNK Tổng hợp Hà Nôi (Genexim Hà Nội). ĐT 0903 225994.

KS. Nguyễn Văn Ngà, Hà Nam. Sinh ngày 25 tháng 5 năm 1958; Nơi sinh thôn Văn Phái, xã Bạch Thượng, huyện Duy Xuyên, tỉnh Hà Nam; Nơi ở hiện nay Tổ dân phố Văn Phái phường Bạch Thượng, thị xã Duy Xuyên, tỉnh Hà Nam; Nguyên Chủ tịch Hội Nông dân huyện Duy Xuyên tỉnh Hà Nam; 25 tuổi Đảng (2022); ĐT 0984343925

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là 1-dau-xua-thay-ban-quy-khang-10a.jpg

KS Đinh Văn Ban Nam Định: Sinh ngày 1 tháng 9 năm 1955. Nơi sinh: Yên Bình, Ý Yên Nam Định; Nơi ở hiện nay đường Cù Chính Lan, phường Trần Tế Xương, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định; Nguyên Phó Chánh văn phòng Đoàn đại biểu Quốc Hội và Hội đồng Nhân ân tỉnh Nam Định

KS Nhâm Ngọc Thực, Thái Bình: Ngày sinh 3 tháng 5 năm 1952; Quê quán Đông Hoàng, Đông Hưng, Thái Bình. Nơi ở hiện nay tổ 3 phường Lê Hồng Phong TP Thái Bình; Nguyên Giám đốc Chi nhánh Giống Cây trồng Tâp đoàn Giống Cây trồng tại Thái Bình;
ĐT: ‭0912 232575

KS Nguyễn Tiến Vẹn, Hà Tĩnh: Sinh ngày 17 tháng 12 năm 1947. Nơi sinh xã Cẩm Thăng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, Chỗ ở hiện nay xã Nam Phúc Thăng, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh; Nguyên cán bộ Sở Nông nghiệp & PT NT Hà Tĩnh. ĐT: 0985629207 https://hoangkimlong.wordpress.com/category/lop-10a-tt-dhnn2-ha-bac

KS Trần Thọ Diệu, Bắc Giang. Sinh ngày 5 tháng 1 năm 1951; Quê quán Đức Dũng, Đức Thọ ,Hà Tĩnh. Chỗ ở hiện nay thôn Trại 1, xã Phượng Sơn, Huyên Lục Ngạn, Bắc Giang; Nguyên Trưởng phòng Nông trường Lục Ngạn, Bắc Giang; 25 năm tuổi Đảng;- ĐT: 0913497658

KS Đồng Văn Quảng, Đắk Lăk: Sinh ngày 24 tháng 5 năm 1958; Nơi sinh Xuân Cẩm, Hiệp Hoà, Bắc Giang; Nơi ở hiện nay Hoà Thắng, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk; nguyên Phó Tổng Giám Đốc Tổng Công ty Cà phê Việt Nam; ĐT 0913421126.

ThS GVC Nguyễn Văn Thái, Đăk Lăk: Ngày sinh 30 tháng 5 năm 1958; Quê quán xã Gio An, huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị; Nơi ở hiện nay thôn 10, xã Hòa Thắng, thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đăk Lắk; nguyên Phó Phòng Tổ chức Cán bộ, Phó Trưởng Khoa Nông Lâm Trường Đại học Tây Nguyên; ĐT : 0914032325 (Ghi chú: Thái Thường Quảng là nhóm bạn quý của Trần Thanh Vinh xã Vĩnh Hòa, huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị)

TS NCVCC Nguyễn Văn Thường Đăk Lăk: Sinh ngày 1 tháng 2 năm 1959. Sinh quán thôn Yên Sư, xã Yên Nhân, huyên Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; Nơi ở hiện nay tổ 7, thôn 10, xã Hòa Thắng, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk; nguyên Phó Viên trưởng Viện Khoa học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên; ĐT: 091 4071678

Ths CVCC Vũ Xuân Khoan TP Hồ Chí Minh: Sinh ngày 20.6.1953; Quê quán xã Yên Mạc, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình; Địa chỉ thường trú tại số 7, đường 410E, Khu dân cư Bắc Rạch Chiếc, phường Phước Long A, TP Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh; nguyên Quyền Vụ Trưởng, Trưởng Cơ quan Đại diện Bộ Nội vụ tại thành phố Hồ Chí Minh; ĐT: 0913829667;

KS CVC Nguyễn Tuấn Khải, Đak Nông: Sinh ngày 12 tháng 11 năm 1958. Quê quán: Thị trấn Kép, huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang. Nơi ở hiện nay: 40A Lý Tự Trọng, phường Tân An, TP Buôn Ma Thuột , tỉnh Đăk Lăk. Nguyên Chi Cục trưởng Chi Cục Trồng trọt và Bảo vệ Thực vật tỉnh Đăk Nông, Số điên thoại 0931629279.

ThS CVCC Vũ Văn Rung, Nam Định: Ngày sinh 2 tháng 10 năm 1957; Sinh quán xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Nơi ở hiện nay xã Liên Minh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định; Nguyên Giám đốc Sở Nội Vụ Nam Định; Số điện thoại 0913299038.

KS Phạm Văn Giỏi, Hải Phòng: Sinh ngày 25 tháng 8 năm 1953; Nguyên quán Đông Phương Kiến Thụy Hải Phòng; Nơi ở hiện nay Ngọc Sơn Đồ Sơn Hải Phòng; Nguyên kỹ sư đội trưởng Nông trường Trung Dũng, Số điện thoại 0369 559 596

KS. Nguyễn Kim Thắng Lạng Sơn: Sinh ngày 13.10.1953; Quê quán phường Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Địa chỉ thường trú số nhà 28 Ngô Quyền, phường Vĩnh Trại, thành phố Lạng Sơn; nguyên là cán bộ Sở NN & PTNT Lạng Sơn; ĐT: 038 7269026

KS.Trân Xuân Bính, Đăk Lăk: Ngày sinh 25 tháng 8 năm 1956. Nơi sinh xã Vượng Lộc, huyện Can Lộc tỉnh Hà Tĩnh. Nơi ở hiện nay số nhà 79 Nguyễn Lương Bằng , phường Đạt Hiếu, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắc Lắc;Nguyên Giám đốc Công ty kiêm Bí thư Đảng uỷ Công ty Cà phê Buôn Hồ; huy hiệu 39 năm tuổi Đảng; Huân chương Lao động hạng Ba; chiến sĩ thi đua cấp Bộ; ĐT 0903 508 357.

KS. Phạm Thế Lược, Phú Yên: Ngày sinh 9 tháng 2 năm 1958; Sinh quán Thượng Hiền Kiến Xương,Thái Bình Nơi ở hiện nay Sơn Thành Tây Hòa Phú Yên ( ngải cũng vây) đt có rồi mà Nguyên Trưởng phòng Kỹ thuật Công ty Cà phê ViNa Sơn Thành Tuy Hòa Phú Yên; 37 năm tuổi Đảng (2022) ĐT: 0898227490

KS Lương Thị Ngải, Phú Yên: Sinh ngày 23 tháng 11 năm 1957. Sinh quán: Đông Lâm, Tiền Hải, Thái Bình; Nơi ở hiện nay: Sơn Thành, Tây Hòa, Phú Yên; Nguyên chuyên viên kỹ thuật Trợ lý Giám đốc Công ty Cà phê ViNa Sơn Thành Tuy Hòa Phú Yên; 38 năm tuổi Đảng (2022) ĐT: 0898227490

TP Hồ Chí Minh 2015

Hẹn gặp lại TP HCM

TS Hoàng Kim, Đồng Nai: Sinh ngày 27 tháng 12 năm 1953, Sinh quán; Làng Minh Lệ, xã Quảng Minh, thị trấn Ba Đồn, tỉnh Quảng Bình. Nơi ở hiện nay số nhà 80 khu Trung tâm xã Hưng Thịnh, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai. Thầy nghề nông chiến sĩ , 49 năm tuổi Đảng (năm 2022).GVC Cây Lương Thực Trường Đại học Nông Lâm TP. Hồ Chí Minh, Điện thoại 0903613024

THĂM TRƯỜNG XƯA HÀ BẮC
Thăm thẳm trời sông Thương
Dấu xưa thầy bạn quý Huế thương
Mênh mang một khúc sông Hồng
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tham-truong-xua-ha-bac
#dayvahoc #vietnamhoc; #cltvn; #cnm365; #Thungdung; #đẹpvàhay

Dấu xưa thầy bạn quý;
Hà Nội mãi trong tim;
Thăm trường xưa Hà Bắc;
Đến Kiếp Bạc Côn Sơn;

Vào Tràng An Bái Đính;
Về Nghĩa Lĩnh Đền Hùng;
Hồ Ba Bể Bắc Kạn;
Lên Việt Bắc điểm hẹn;

Về Việt Bắc nhớ Người;
Bản Giốc và Ka Long;
Thăm Hoa Lư Cúc Phương;
Món ngon ở Ninh Bình;

Đất Mẹ vùng di sản;
Trường tôi nôi yêu thương;
Huế di sản thế giới;
Việt Nam quê hương tôi.

(Bấm vào mỗi hàng để xem ảnh; những chuyến về nguồn chưa thấy ảnh ở 1-15 sẽ có ở mục 16) https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tham-truong-xua-ha-bac/

xem tiếp hình ảnh bài mới hơn Hà Nội mãi trong tim https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ha-noi-mai-trong-tim/; hình ảnh bài cũ hơn Đến Kiếp Bạc Côn Sơn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/den-kiep-bac-con-son/

Kính chào thầy bạn thân thương! Gặp nhau hay ngắm ảnh là thật quý; xin chúc mừng quý thầy bạn và tỏ lời biết ơn chân thành Thầy bạn là lộc xuân. Thầy bạn quý đã lưu dấu đặc biệt sâu sắc trong đời của mỗi chúng ta. “Dù chúng ta đang ở đâu, chính thầy bạn đã tạo nên thế giới”. Dưới đây là video hình ảnh chọn lọc của Lớp 10 Trồng trọt Trường Đại học Nông nghiệp 2 Hà Bắc vừa gặp mặt 41 năm (2022), và đã gặp mặt sau 30 năm (2011), với hình ảnh trân quý của ngày ra trường (1981) cùng những dịp du lịch sinh thái Việt.

BORLAUG VÀ HEMINGWAY
Hoàng Kim

Năm 1988, tôi đến CIANO thăm nơi làm việc của nhà khoa học xanh Norman Borlaug nhà nhân đạo người Mỹ đã ‘cứu sống nhiều người hơn bất cứ ai khác trong lịch sử’ và thăm nơi lưu dấu di sản Ernest Hemingway, tác giả của kiệt tác Ông già và biển cả là bài học tự do sáng tạo sống giữa thiên nhiên. Tôi mang theo suốt đời ấn tượng sâu sắc với Borlaug và Hemingway. Tôi chỉ mới chép đôi điều về họ trên Wikipedia Tiếng Việt, nay lưu điểm nhấn này để thỉnh thoảng quay lại chiêm nghiệm sâu hơn về di sản của hai người thầy kỳ dị và bạn lớn này.

Thầy Norman Borlaug là nhà nhân đạo, nhà nông học Mỹ, cha đẻ của cuộc cách mạng xanh được tặng giải Nobel và Tổng thống Mỹ trao tặng huân chương cao quý nhất của nước Mỹ, thế giới tôn vinh là nhà bác học số một của nhân loại trong  cuộc chiến chống nghèo đói. Thầy đã suốt đời nghiên cứu giảng dạy về chọn tạo và phát triển cây lương thực, góp phần cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho hàng trăm triệu nông dân nghèo ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ Latinh. Thầy là người sáng lập Giải thưởng Lương thực Thế giới và tổ chức nhiều hoạt động thiết thực thắp sáng niềm tin yêu cuộc sống. Tôi được Thầy ghé thăm gần trọn buổi chiều tại phòng riêng ở CIMMYT, Mexico ngày 29 tháng 8 (âm lịch) năm 1988. Thầy đã đi một mình ghé thăm người trò nhỏ duy nhất của châu Á trong lớp học “Quản lý Trung tâm/ Trạm trại Nông nghiệp”. Khi Thầy đến, tôi đang thắp nến trên giá sách trong phòng đề tưởng nhớ ngày mất của cha tôi. Biết cha tôi bị bom Mỹ giết hại tại làng nhỏ ở Quảng Bình của buổi chiều này hai mươi năm trước (1968) lúc tôi còn là học sinh trung học của Trường cấp Ba Bắc Quảng Trạch. Thầy bối rối xin lỗi và thật bất ngờ tôi đã có được một buổi chiều vô giá riêng tư bên Thầy. Điều này tôi đã kể tại bài viết “Thầy bạn là lộc xuân cuộc đời” đăng ở kỷ yếu Khoa Nông học Trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh năm 2010 và bảo tồn trên trang Thầy bạn là lộc xuân

Norman Borlaug nhà khoa học xanh, lời Thầy dặn thật thấm thía “Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời

Đời người có những dịp may kỳ lạ khó cắt nghĩa, Tôi đã lưu lại câu chuyện Giấc mơ thiêng cùng Goethe.kể về duyên may từ một cậu bé chân đất làng Minh Lệ có cơ hội học Goethe ở châu Âu và được đàm đạo với Thầy Norman Borlaug khai tâm đường vào khoa học. Noi gương Goethe, Borlaug dạy học, viết sử thi về đất nước con người văn hóa giáo dục Việt Nam, Cây Lương thực Việt Nam khoa học cây trồng, lĩnh vực am hiểu sâu của chính mình

GIẤC MƠ THIÊNG CÙNG GOETHE
Người già kể chuyện sử thi
Kalovi Vary, Roma, Oregon
Thắp lên trong tôi ngọn lửa
Hoàng Kim

Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Goethe trao tặng cho tôi
Ngọc minh triết của Người.

Tôi giấc mơ gặp Goethe
Kalovi Vary, Czechoslovakia
trong rừng thiêng cổ tích.
Người kể chuyện sử thi

Tiệp Khắc kỷ niệm một thời
Praha Goethe và lâu đài cổ
Những khát khao của Faust,
Nỗi đau của chàng Werther

Người nhắc tôi đừng quên
kể chuyện sử thi dân mình
Cho dù học gì làm gì
Cũng đừng quên chuyện đó !

Người hỏi tôi trong mơ
Con có dám học Faust?
Chọn minh triết làm Thầy
Suốt đời theo Trí Tuệ ?

Tôi trả lời.trong mơ
Có con xin theo Người !
Con xin theo học Goethe
Người kể chuyện sử thi

Ta bàng hoàng gặp Goethe
Trên cầu đi bộ Charles
Trong 30 tượng thánh trầm tư
Tôi ngắm hình tượng Faust

Quảng trường Old Town Square
Đế Quốc La Mã Thần Thánh
Goethe lắng đọng tại Praha
Trong huyền thoại muôn đời

Tôi nhớ Người ở Frankfurt,
Di sản Người Leipzig, Strasbourg
Ông già hiền triết châu Âu
Tại bao nhiêu điểm đến …

Tôi học Goethe qua thơ Xuân Diệu
Mọi lý thuyết đều là màu xám,
chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi
Thơ Người đi cùng tôi bao tháng năm.

Tôi gặp Goethe ở châu Âu
Trong hình bóng người hiền
Cũng gặp Người tại Oregon
Nơi Miền Tây Nước Mỹ.

Tôi gặp Goethe ở châu Mỹ
Tại Ciudad Obregon
Hồ lớn ba tỷ khối nước
Cây xanh đất nước giao hòa

Tôi  gặp Người ở CIMMYT Mexico
phía cuối trời Tây
GoetheNorman Borlaug dạy cho tôi
Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương

Người hóa thân
trong thanh thản
bóng cây xanh
Người đàm đạo
với Norman Borlaug
và cậu học trò nghèo
Về ý tưởng xanh
Con đường xanh
Hành trình xanh
Sự nghiệp xanh
Nhà khoa học xanh
giấc mơ hạnh phúc

Goethe là vòm cây xanh
Goethe cũng là lão nông
ngồi cùng chúng ta
chuyện trò
trên cánh đồng xanh
hạnh phúc.

Goethe Norman Borlaug
là những trí tuệ bậc Thầy.
Họ không màng hư vình
mà hướng tới đỉnh cao hòa bình
sự an lành tiến bộ.

Hoàng Kim ở Roma, Italia.

Anh và em cùng Goethe
Ở FAO, Rome, Italy
Người hóa thân
thành nữ thần Tình Yêu

Trời xanh tuyệt vời !
Trời nhân loại mênh mông !

Ernest Hemingway Ông già và biển cả, sinh ngày 21 tháng 7 năm 1899, mất ngày 2 tháng 7 năm 1961, là một tiểu thuyết gia người Mỹ, một nhà văn viết truyện ngắn, và là một nhà báo. Ông là một người xa xứ Paris và một cựu quân nhân. Ông đã nhận được Giải Nobel Văn học năm 1954 và Giải Pulitzer năm 1953 với tiểu thuyết Ông già và biển cả. Ngày 21 tháng 10 là ngày ông đã phát hành lần đầu cuốn tiểu thuyết kiệt tác Chuông nguyện hồn ai.

Ngôi nhà nơi Hemingway sinh ra tại Oak Park, Illinois là nơi lưu dấu tuổi thơ dữ dội của ông nay là chứng tích nơi Hemingway viết những kiệt tác Giã từ vũ khí, Chuông nguyện hồn ai. Ông già và biển cả. Hemingway là một người lính đã đi qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai ở những chiến trường và thời điểm khốc liệt nhất, ông có có một cuộc đời giàu trãi nghiệm nên kịp trao lại cho đời một di sản văn chương đồ sộ

Hemingway sinh tại Oak Park, Illinois, một vùng ngoại ô của Chicago, Mỹ. Hemingway lúc ở tuổi mười tám đã bắt đầu sự nghiệp viết văn của mình với tư cách là một phóng viên cho báo The Kansas City Star. Tờ báo này đã ghi danh ông là phóng viên hàng đầu của báo trong một trăm năm qua,

Hemingway có phong cách văn chương nổi bật “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận” (“Use short sentences. Use short first paragraphs. Use vigorous English. Be positive, not negative.”). Lối văn ấy, sau này tôi nghiệm thấy, người đã học và dùng thật khéo, thật giỏi và thật nhuyễn lối phong cách văn chương độc đáo ấy là tổng thống Mỹ Trump (cho dù ông có nhìn nhận điều ấy hay không.

Hemingway ngừng làm phóng viên chỉ sau đó một vài tháng và tình nguyện gia nhập Quân đội Mỹ vào hàng ngũ quân y sang chiến đấu ờ Pháp và Italia. Ông bị thương khi đang lái xe chuyển thương binh và được huân chương từ chính phủ Ý. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất ông trở về Mỹ lấy vợ là Hadley Richardson và sống một cuộc đời nghèo túng ở quê. Từ năm 1921 gia đình ông định cư ở Pari Pháp. Sau nhiều thành công với tư cách là thông tín viên nước ngoài, Hemingway trở lại Toronto, Canada năm 1923. ông có người con trai đầu tên là Jack. Hemingway. Ông chia tay người vợ đầu năm 1927 và cưới Pauline Pfeiffer, một phóng viên thời trang không thường xuyên, người sùng đạo Thiên Chúa đến từ Piggott, Arkansas. Họ có với nhau hai người con năm 1928 và 1930.

Hemingway năm 1929 viết tác phẩm “Giả từ vũ khí” thành công nên thu nhập sau đò khá hơn. Năm 1931 Hemingway quay về Key West, Florida và sống ở đó đến năm 1940 ông thường đi câu cá và nhiều lần sang Tây Ban Nha để tìm tư liệu và đi săn ở châu Phi để lấy cảm hứng viết văn ở Mombasa, Nairobi Machakos tại Kenya, Tanganyika. Serengeti, quanh Hồ Manyara và vùng phía tây và đông nam của Công viên Quốc gia Tarangire ngày nay. Hemingway đã bị bệnh trong chuyến đi này. Sự sa sút sức khỏe và tình hình gia đình xã hội chính trị tôn giáo luôn không thể dung hòa đã làm ông kiệt sức. Bố Hemingway nghèo khó quản bách tài chính phải tự sát. Ông đã viết ‘Chuông nguyện hồn ai ‘ năm 1940 trong hoàn cảnh đó.

Hemingway là mẫu mực kinh điển trong văn học Mỹ với đặc trưng văn chương chuẩn mực, kiệm lời, sáng tạo, khắc họa vĩnh cữu những từ chìa khóa (Key words). Hemingway là một người theo chủ nghĩa khắc kỷ (stoicism), vui lòng chịu sức ép (grace under pressure), thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh. Ông là một cựu quân nhân trãi gần trọn đời trong chiến tranh và nghèo đói, nên ông đã mô tả người như ông là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) của cộng đồng người Paris xa xứ.

Điều thú vị là tôi thật nhiều năm hiểu nhưng chưa tìm được một lối diễn đạt nào để mô tả phong cách Hemingway trong bản lĩnh người lính khi phải bộc lộ sự thật quan điểm lính của mình đối mặt với một quyết định sinh tử để không bị lợi dụng cho một mưu đồ chính trị trái lòng mình. Hemingway tôn trọng Cu Ba không đồng tình chiến tranh lạnh..Cho đến khị tôi tình cờ đọc được một đoản văn ngắn của Lưu Huy Chiêm một người bạn nghề thủy lợi, nghiệp nhà văn đã nói về Hemingway đúng tính cách ông ấy, của “Thế hệ bỏ đi”. Nguyên văn đoạn văn ấy như sau:

LÒNG TỰ TRỌNG CAO QUÍ. Chiêm Lưu Huy Năm 1953, Stalin chết. Nikita Khrushchev (1894 – 1971) lên cầm quyền Liên bang xô viết. Ông quyết định cải tổ. Việc đầu tiên trong quan hệ ngoại giao, ông chọn cách bắt tay chung sống và thi đua hòa bình với cường quốc thù địch ý thức hệ Hoa kỳ. Chuyến thăm chính thức có hàng tấn thông tin từ cả hai phía, đầy ắp sự kiện. Bài viết này chỉ chú ý đến chi tiết nhỏ nhặt gần như bị lãng quên. Nikita khrushchev mang theo nhà văn Nga – Mikhail Aleksandrovich Solokhov (1905 -1984). Nikita ngầm cho người Mỹ hiểu rằng văn hóa Liên xô yêu chuộng hòa bình, lên án chiến tranh mà Sông Đông êm đềm của Solokhov đại diện làm sứ giả – Sứ giả Hòa bình!

Đáp lễ, chuẩn bị cho chuyến thăm chính thức Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết, Tổng thống Hoa kỳ Dwight F Eisenhower (1890 -1969) muốn có tác giả lừng danh thiên hạ với tác phẩm Ông già và biển cả, được viết ở Cu Ba (cánh tay nối dài của Liên xô ở ngay sát nách Mỹ!) là Ernest Hemingway (1899 – 1961) tháp tùng. Bất ngờ, nhận được lời mời, Ernest Hemingway mỉm cười nói: Tại sao Ernest Hemingway lại phải tháp tùng Dwight F. Eisenhower. Lẽ ra ông ấy phải tháp tùng tôi chứ !? Và, dĩ nhiên Ernest từ chối thẳng thừng một cơ hội ngàn vàng, ngàn năm mong đợi của không ít người!?

3 – Không ai biết có 1001 lý do từ chối, nhưng chắc chắn có một cái gì… như là lòng tự trọng cao quý của Người Văn…!

Đây là chân dung Người Văn có lòng tự trọng cao quý mà tôi hiến tặng các bạn, trong đó có Tình Yêu Của Tôi…

Tôi dự tiệc cưới con một người bạn lính thuộc Lớp thanh niên xếp bút nghiên lên đường chiến đấu và trở về trường học sau chiến tranh. Thế hệ của chúng tôi cũng trãi gần trọn đời trong cuộc chiến chống lại giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm, cùng những biến thái của điều này sau chiến tranh, theo cách nói Hemingway là “Thế hệ bỏ đi” (Lost Generation) vì thế hệ chúng tôi Hemingway văn chương ông dường như có sự đồng cảm và thấu hiểu tâm trạng.

Chúng tôi cũng là quân nhân, cũng là người xa xứ ‘cuốn theo chiều gió’, cũng sống thuận theo tự nhiên và nghịch cảnh, cũng vui lòng chịu sức ép. Đọc “Những người lính sinh viện” của Lê Anh Quốc FB Phan Chi dưới đây, đã nói lên thật đúng và thật đồng cảm kỳ lạ tâm trạng chúng tôi , và cũng thật sâu sắc khi đối thoại thầm lặng với tác giả của kiệt tác “Giã từ vũ khí”:

“Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!”

Tôi học Norman, noi theo Norman bởi những lời Thầy dặn tôi mãi mãi làm người Thầy nhà nông chiến sĩ, đã khai tâm cho tôi làm thay đổi chính cuộc đời mình, nhưng tôi thật thích Hemingway về văn chương kiệm lời trong như ngọc chắt lọc từ khóa (key word) Ông già và biển cả; Giả từ vũ khí; Chuông nguyện hồn ai; “Sử dụng những câu văn ngắn. Sử dụng những đoạn mở đầu ngắn. Sử dụng thứ tiếng Anh hùng hồn. Phải khẳng định, không phủ nhận”; “Thế hệ bỏ đi” Hemingway với những tác phẩm để đời và các câu văn ngắn gây ám ảnh và ấn tượng đặc biệt sâu sắc trong lòng tôi.và say mê đến kỳ lạ của ông ham thích tự do. Đó là đại dương khát vọng “Ông già và biển cả” khai mở tự do tâm thức tình yêu cuộc sống. Tôi cũng vẫn thường quay lại với Nguyễn Khải, với các tác phẩm văn chương ưng ý  mà Nguyễn Khải đã trao lại ngọc cho đời và những lời thương nhớ Nguyễn Khải của các bạn văn, người đọc viết về Nguyễn Khải để tìm câu giải thích cho điều tâm đắc ông viết: “Trên cuộc đời không có bước đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải vượt qua được những ranh giới ấy”. “Tôi viết vậy thì tôi tồn tại ! Viết văn không chỉ do nhu cầu kiếm sống, viết văn cũng không chỉ do những bức xúc khôn khuây của cá nhân, mà viết còn là mong muốn được trao trở về với cái vô hạn”.

CHÀO NGÀY MỚI YÊU THƯƠNG
Hoàng Kim

Thơ yêu thương là thơ hoa hồng
Đỏ của máu và xanh hi vọng.
Ngày ghi nhớ trong trái tim tôi
Ngày mới nhớ về mạch sống

Thoáng chốc tháng năm nhìn trở lại
An nhiên chào ngày mới yêu thương.
Đi qua chiến tranh mừng hạnh phúc
Bạn học chung mâm nhớ lớp trường.

Borlaug và Hemingway là câu chuyện thú vị làm vui cả ngày

Hoàng Kim

Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
FB Phan Chi


Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.

Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.

Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.

Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.

Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.

Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.

Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”

Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính.

Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.

Nói về thế hệ mình, anh tự hào:

“Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào – Bầu, Bí thương nhau.”

Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:

“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”

Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:

“Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”

Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên. Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc! Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:

“Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…”

Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:

“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”

Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:

“Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”

Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:

“Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.”

Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa! Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:

“Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”

Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:

“Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có – Cái không…

*

Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh – người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng! Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc

KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1 :
KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ chúng tôi!
Chưa kịp lớn lên,
Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.
Vừa buông nách đứa em bé nhất,
Trên đầu mình,
Già dặn khoảng trời xanh.

Thế hệ chúng tôi-
Thế hệ chiến tranh.
Hoa lau trắng những ngày tiễn biệt
Người lên đường –
Đất Nước là Tiền tuyến
Người ở nhà
– Tổ quốc hóa Hậu phương

Thế hệ chúng tôi !
Ai cũng dễ thương,
Thơm thảo như hoa,
Ngọt ngào như trái.
Tình đồng đội lòng không cỏ dại,
Nghĩa đồng bào
– Bầu, Bí thương nhau.

Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”
Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củi
Đêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:
– Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?

Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng
Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy
Đời con gái chín dần trong cây gậy
Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.

Thế hệ chúng tôi…
Meo mốc bình vôi,
Mùa cau lại vàng,
Mùa trầu lại đỏ,
Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,
Đợi con về …
Run rẩy quét thời gian.
Ngôn ngữ Tình Yêut
hời của chúng tôi:
Một đôi chim bay trên áo gối,
Một bông hồng thả hương bối rối,
Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là thương
Là nhớ
Là yêu
Là gánh vác việc nhà người ra trận.
Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,
Cũng một đời chín đợi, mười trông.
Đêm.Con dâu nằm chung với mẹ chồng,
Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.
Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.
Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.

Thệ hệ chúng tôi,
Ra ngõ gặp Anh hùng.
Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.
Người trước ngã,
Người sau không bỏ cuộc.
Trận đánh này,Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày mai
Ngày mai
Ngày mai…
Có thể là gần
Có thể xa vời vợi…
Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.
Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !

Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,
Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.
Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.
Những con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian nan!
Mặc đạn bom rơi!
Đích phải đến là TỰ DO – ĐỘC LẬP.
Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.
Là Bắc – Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ vui
Ngày mai .Khải hoàn ca !
Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.
Ta tưng bừng,Ta thương người lặng lẽ.
Bởi Mất – Còn,
Cũng đến một ngày mai…

Chương hai:
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG VÀO
Đêm đầu tiên, Ngủ giữa rừng cây Chúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.Chống chếnh thế, Những ngôi nhà của Lính,Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng” Không che được hạt mưa xiên xối xả.Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …Anh lính gác hết đứng lại ngồi, Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát. Đêm bỗng òa…Một thoáng nhớ xôn xao …Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào, Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu.Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu, Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…Đêm không ngủ. Là đêm rất sâu, Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện. Đứa thì bảo,Võng như hình trăng khuyết Treo giữa rừng và thức với ngàn cây.Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy, Chở hờn căm trên dòng sông cạn.Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận. Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…Đứa lại nói Võng như cánh cung.Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp” Còn Người Lính là mũi tên vun vút, Phút bình minh là lao thẳng ngực thù! Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa? Bảo, Mái Tăng giống như chiếc lọng, Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng,Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa.Thì, bây giờ nào có kém chi Khoa Đánh giặc,đậu nhiều Dũng sĩ. Ngày bái tổ, Ngày Ta thắng Mỹ, Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui… Đêm va vào xoong chảo đằng kia Vỡ từng tiếng.Lanh canh trên bếp lửa…Chúng tôi hiểu, Bình Minh về gọi cửa, Chỉ tích tắc thôi, Nhà Lính dỡ xong rồi. Chúng tôi lại đi…Náo nức những dòng người. Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm. Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn, Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”. Gửi Đại Ngàn, những đêm phía sau.Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận. Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận. Đã vội ào đi trước lúc trời hừng. Để lại những địa danh – Khắc lên cây rừng.Những dấu thời gian còn tươi roi rói.Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi. Dọc đường vào Năm tháng cũng vào theo .

2. TÂN BINH

Thắc thỏm quá. Trận đánh đầu tiên.Những tân binh chưa thạo bắn.Giặc tràn lên sọc sằn như đàn rắn. Chúng tôi rợn người! Nhắm mắt! Ngồi im…! Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên. Anh thủ thỉ,” Lần đầu, ai chả thế!” Nói cho biết,” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ.Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…” Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân.Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi. Nét phong trần, làn da xẩm lại.Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần! Bọn giặc ào lên! Mỗi lúc một gần.Lệnh phát hỏa! Chúng tôi ào ào bắn! Những viên đạn xả nòng không cần ngắm …Phía bên nào cũng có tiếng rên la …Nghe gằn đầy âm thanh AK Mà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ … Mãi sau này chúng tôi mới rõ, Cánh tân binh,đã bắn phứa lên trời. Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi. Chỉ huy bảo:“ Chúng ta đã thắng…”Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc.Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình. Lóng ngóng quá, Những vòng tay ôm bạn. Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn, Bế đứa này… Rồi bồng đứa kia …Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa, Một trận thôi đã thành liệt sĩ. Ngày trở về, Ngày Ta thắng Mỹ Anh chẳng thể làm “Trạng vinh qui” Trước mộ các anh,chúng tôi lặng đi. Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…Hoàng hôn xuống. Đỏ mọng từng con mắt. Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung”

3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH

Cuộc đời lính.Đạn trước mặt.Bom trên đầu.Mìn vùi dưới đất …Sống và chết đo bằng gang tấc.Thắng và thua đọ ở sức người. Có phải thế? Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối…Đường ra trận nào ai tính tuổi ? Nên tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau …Nếu gom được – Xin giữ cho mai sau. Phòng có giặc hãy phát làm vũ khí, Nếu còn sống nhớ mang về quê tớ, Những trận cười rừng rực sức trai …Những nụ cười hình hoa mơ, hoa mai Rụng trắng gốcvẫn khát ngày xây quả Những nụ cười thấm cả vào máu đổ Chôn dưới mồ vẫn cứ vút bay lên! Những nụ cười mang hình mũi tên Làm thế trận bủa vây quân giặc Những nụ cười nối phương Nam – Phương Bắc Cứ trùng trùng …Theo bước những đoàn quân Những nụ cười nuôi từ Lòng Dân Thành sức mạnh Kẻ thù nào thắng được? Những nụ cười của Bốn ngàn năm Dựng nước.Hóa thành đồng Muôn thuở Việt Nam ơi! Những nụ cười làm khô giọt lệ rơi.Ngày TOÀN THẮNG nếu con không về nữa Mẹ lắng nghe trong từng làn gió Có tiếng cười của đứa con yêu …

4. THI SĨ
Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏa Làm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động.Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…Có phải vì quen với nắng mưa Nên câu thơ biết xòe ô cho bạn? Có phải quanh mình ùng oàng bom đạn, Nên trong thơ khao khát một nụ hồng! Có phải vì thương,vì nhớ cháy lòng Nên lửa cứ bập bùng nơi ta viết? Có phải vì anh yêu da diết Nên bài nào cũng nói về em? Chẳng tài đâu! Làm mãi rồi quen Như đánh giặc lâu ngày thành lính cựu.Trước cuộc sống Bao cái Hùng tề tựu Dẫu chẳng là Thi Sĩ …Cũng Thơ! Ẫy là nói những đứa ngu ngơ Chứ thế hệ thì thiếu gì đứa giỏi.Đánh giặc cừ Làm thơ cũng sõi, Dũng Sĩ và Thi Sĩ rất xứng danh. Đêm bồi hồi bên cánh rừng xanh Náo nức quá! Nghe Chương trình văn nghệ“ Thơ Chiến sĩ ”? Sao nhạc buồn đến thế? Lính nhớ nhà…càng nhớ nhà hơn! Ơi!Tiếng đàn bầu Nỉ non Nỉ non…Đem thân phận thả vào đêm chiến trận Này Cung Nhớ! Này Cung Thương! Này Cung Hờn! Này Cung Hận! Hỏi cung nào Người Lính chẳng từng qua ???

5. ĐÓI

Trận đánh này. Chúng tôi giữ điểm cao,Quần cả tháng, lương ăn không còn nữa! Giặc vây chốt đông như đàn kiến lửa Phía chúng tôi … Còn lại mấy đứa thôi.Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi, Cái sợ nhất lúc này là đói. Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ, Đói thừa cả chân tay…! Mà lạ chưa?Vào chính lúc này, Chúng tôi lại đánh lui quân giặc. Có lẽ vì chẳng cách nào khác được! Có lẽ vì… Còn – Mất đó thôi…Phía chân đồi, giặc đã rút rồi. Cái Đói lại xông lên ngợp chốt. Không thể bắn, Và cũng không thể giết Muốn cầm hòa…Cái Đói Chẳng buông tha ! Đồng đội tôi gục xuống giữa chiều tà… Gạo vừa tới, cơm còn đang nấu dở Boong canh rừng lục bục sôi trên lửa Bạn đi rồi… Chẳng kip bữa cơm no ! Ôm xác bạn chúng tôi khóc hu hu! Người đói chết trên tay người đói lả Chôn bạn xong… Đói tràn lên cỏ Tôi cầm cành cây, đói lả trước mồ …Chúng tôi thường cúng bạn cả nồi to Cơm đấy, canh đấy… Bạn ăn đi khỏi đói ! Sống giữ chốt Chết thành ma đói Đêm đứt rời … Bởi những cơn đau….

6. TIẾN VỀ THÀNH PHỐ

Từng trận đánh, cứ nối tiếp nhau Như mùa lũ ngập dần đôi bờ đất Từng chiến dịch mở bung mặt trận Như gió ngàn ồ ạt thổi võng thung. Mùa mưa đi qua.Khô khát những cánh rừng. Cây trút lá bên đường tơi tả. Đất như choàng tấm chăn màu đỏ. Những nấm mồ đồng đội rực lên! Tiến về Sài gòn Từ khắp nẻo Trường Sơn .Đại bác Xe tăng Chuyển rung thành phố Rầm rập những Binh đoàn Ào ào thác đổ Cả nước dồn về Trùng điệp quân đi. Các hướng tấn công Thần tốc – diệu kỳ Ngày mai hiện dần Bằng xương Bằng máu Ngày mai sẽ về Gang tấc nữa thôi! Gang tấc nữa thôi! Cờ giải phóng tung bay dinh Độc Lập Tổ quốc tưng bừng niềm vui thống nhất Chúng con sẽ về Bên mẹ Mẹ hiền ơi! Gang tấc nữa thôi! Ác liệt lại ngàn lần ác liệt Sào huyệt cuối cùng Sào huyệt lửa bung ra. Máu Người Lính đã thấm rừng già, Nay lại đổ dọc đường vào Thành Phố ! Người lính cựu, Mang nửa đời chữ thọ, Có ai ngờ! Ngã xuống,Trước ngày mai.Chúng tôi nghiêm trang Đứng trước thi hài Người Đồng đội,Người Anh, Người Thầy trong trận mạc.Giữa Sài Gòn – 30 THÁNG TƯ.

Chương ba: SAU CHIẾN TRANH
1. LÀNG XƯA
Giặc tan rồi Chúng tôi trở về quê Bồi hồi quá! Những bàn chân lính Chiếc ba lô trên lưng nhẹ tếch Chỉ nặng nhiều là mấy búp bê.Khao khát gì mà bồng bế thế kia? Hay ở rừng lâu ngày không bóng trẻ? Ngoài mặt trận nào ai thành bố – mẹ Tìm đâu ra tiếng bé khóc chào đời. Hay tuổi xuân ta trầm bổng cuối trời? Như hạt mưa sa xuống vườn đồng đội Hay vì thương cây tháng năm ngóng đợi? Mùa hoa về cho tươi lại cành xanh.Thôi! Gác lại một thời chiến tranh, Ào về nơi chôn nhau, cắt rốn. Để ngắm Mẹ Cho hả hê nỗi nhớ. Để nhìn Cha Cho đã buổi thương Người.Để được gặp, Nàng mặc áo nâu tươi Khoe với Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm, Rằng: hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm, Rằng: hôm nay thuyền đã cập bến rồi. Đây mái nhà tuổi thơ của tôi. Đây bậu cửa chắn ngang thời lẫm chẫm. Đây hình vẽ ngu ngơ thời chấy rận, Màu than đen còn nhánh đến bây giờ.Đây hàng cau cha trồng từ ngày xưa. Rụng đỏ đất…Những mùa đành để lỡ. Đây vườn trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ, Rơi vàng trời như thể khát tìm cau. Đây con đường nối sang nhà nhau. Bên ấy, bên này đi về một ngõ. Đêm. Họp Đoàn cùng chung đuốc tỏ, Ta soi cho Em về tới sân nhà. Đây xóm làng lam lũ của ta. Những bữa cơm còn đầy mâm rau má. Người ra trận vẫn mang manh áo vá. Trẻ tới trường, quyển sách đọc thay nhau. Mùa đông về chăn chưa đủ ấm đâu, Mùa hạ đến chẳng đủ màn ngăn muỗi.Ta gặp ai cũng già trước tuổi.Biết: Hy sinh đâu chỉ ở chiến trường! Ơi! Xóm làng mà ta gọi Quê hương, Người ra trận đông hơn người ở lại, Đã kín vách BẢNG VÀNG DANH DỰ, Giờ lại nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG. Bao hố bom chằng chịt trên đồng, Nghe lành lạnh tiếng cá cờ búng nước. Hiểu hạt gạo nuôi quân ngày chiến cuộc, Đã chan hòa, Máu với Mồ hôi.

2. MẸ

Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ. Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run. Như là để thật tôi hơn Mẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào. Nhận ra, mắt Mẹ lệ trào Rưng rưng…vào khoảng khát khao con về.Và tôi cứ thế lặng đi Trước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà. Mấy năm đánh giặc đường xa Chẳng ngờ đâu Mẹ tôi già thế kia? Hàm răng đen nhánh ngày xưa Đi đâu vội,để nắng mưa cối trầu? Hạt sương kéo sợi trên đầu Bảo tôi: Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi. Mắt huyền xưa buộc Cha tôi Bây giờ,Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm. Mỏng manh chiếc áo vải mềm,Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu. Yếm Người nào có rộng đâu. Mà sao như thửa đất giàu mênh mông…Ở đây cũng thể Thành đồng Ở đây nuôi những Anh hùng nước non.Yếm vuông cho giọt sữa tròn Đọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày. Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ! Mẹ tôi giờ, mắt đã lòa Nhìn tôi bằng ngón tay già… rưng rưng…

3. MẶT TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG

Chúng tôi về với việc nhà nông, Đông hơn cả, Vì đồng rộng lắm Những người lính một thời chiến trận Giờ lại về cuốc bẫm cày sâu. Ruộng có bờ, Việc chẳng có bờ đâu Buổi lật cỏ đã lo ngày bắc mạ. Gieo trên đất những mầm vui hối hả, Những lo toan, thắc thỏm, trông chờ.Tưởng đã quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ? Bất ngờ hạn – mặt đồng khô như ngói. Bất ngờ úng – lúa chìm trong tê tái. Bất ngờ sâu – đau thắt ruột người trồng. Cấy cây lúa Là cấy phận nhà nông. Xòe bàn tay tính từng ngày, từng tháng. Mặt trời lên đến thâu đêm lại sáng. Bóng người còng, mơ…lúa tròn bông.Hạt gạo dẻo thơm? nào dễ hiểu đồng, Khi chưa có một lần với lúa. Khi cuộc đời lượt là trong nhung lụa, Đã chắc gì hiểu nổi bát cơm bưng ? Đã chắc gì biết cái rét cuối đông? Chân mẹ nẻ ngậm bùn rét giá. Đã chắc gì biết những chiều nắng hạ? Áo cha dầy thêm mỗi bận mồ hôi. Về với đồng mới hiểu hết đồng ơi! Bát cơm chan mồ hôi – nước mắt Lại có chuyện… những người khuất tất Lại bão giông… rình rập trên đầu…Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn – Cái mất Trở về làng đánh đổi Cái có – Cái không… Phải vượt lên thôi! Mình tự cứu mình.Than phận làm gì cho thêm yếu lính? Đất Nước chiến tranh ra đi đánh giặc.Đất Nước hòa bình, tất cả dựng xây. Nào tập đi! Cho thẳng những đường cày Cho con trâu khỏi nhắc người: vắt – diệt Cho vụ mùa gối tiếp nhau mải miết Cho đồng làng bông lúa gọi : đời no! Nào học đi! Ta mới chỉ i tờ. Nghề nhà nông còn bao điều mới lạ, Muốn xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ. Phải hiểu đồng, như hiểu chiến trường xưa. Ta đã nghe ! Nhiều đồng đội gần, xa Bát ăn đủ rồi, giờ thêm bát để.Đã rộng cửa nhà,Đã yên dâu – rể, Đã ông – bà… còn rất lính mà Em! Ta lại nghe.Từ phía mặt trời lên Tiếng tần tảo gõ vang đường xuống chợ Những mảnh vườn cho mùa chín đỏ Thơm chật gùi…Đồng đội địu trên lưng. Và đằng kia, trên khắp nẻo núi rừng, Bao trang trại mở đường vào giàu có. Nhiều người lính đã thành ông chủ. Cũng đình huỳnh xe máy hon đa. Vườn-Ao-Chuồng xây cất Vi la, Ai bảo lính không biết làm kinh tế? Bao doanh nghiệp tư nhân Bao nhiêu nhà tỷ phú Cũng đều từ những Cựu Chiến binh.Ta dõi theo vóc dáng những công trình.Bao người lính trở về xây thủy điện Đời lại thắp những NGỌN ĐÈN trước biển Sóng gầm gào…Đèn vẫn sáng lung linh. Ấy là khi Ta tự biết vượt mình Trước cuộc sống Có bao điều Cầu ước.Nếu được ước Xin ước cho tất cả Đừng hóa mình xa lạ với Nhân Dân.

Chương 4: HỒI TƯỞNG

Thế hệ chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh.Đời mỗi đứa là một thời để nhớ Về đồng đội, Về những ngày khói lửa Về những hy sinh,… không nói hết bằng lời. Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên…ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.Có những hy sinh Âm ỉ với thời gian Người trở về trên mình đầy thương tích Chiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốc Hiểu con đường đang chín giọt mồ hôi.Có đứa về lành lặn hẳn hoi Nào ai hay?Chất độc vùi trong bạn Lúc làm cha mới biết mình trúng đạn Vết thương – Là con anh. “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài hát gọi ta về quân ngũ.Cuộc sống Lính có khi nào đầy đủ? Thiếu thốn nhiều nên cũng phải quen đi! Cũng phải quen. Như thể chẳng thiếu gì Vì khi ấy chiến trường cần phải thế! Ngày trở về Ta không còn trai trẻ.Giữa đời thường cái thiếu lại thiếu thêm.Những hy sinh không thể bắc lên cân. Càng không thể quy thành tem phiếu. Những người lính có bao giờ định liệu Cái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu? Không biết người ta sống mai sau, Có đời hơn thời chúng tôi đang sống? Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng, Ta vẫn tin! Đồng đội chẳng quên nhau! Nhân Dân mình sống có trước có sau. Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết. Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết, Cho người sống,Cho người còn mà chết tuổi thanh xuân. Nếu Cuộc đời biết vì Nhân Dân Thì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng. Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng, Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa? Bom đạn tạnh đi rồi Chiến tranh đã lùi xa! Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới! Không thể đem những ngày lửa khói Giữa thị trường đánh đổi lấy ấm no! Không thể đem việc đổi xạ – bóp cò, Làm công nghiệp trong thời mở cửa. Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ, Nếu chân mình còn nặng đế cao su! “Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!” Bài ca ấy đã trở thành lẽ sống! Chúng tôi hát từ buổi tò te lính.Đến bây giờ vẫn hát- Những Cựu binh.

Lê Anh Quốc
Thị xã Yên Bái – Tháng 1-2000

ĐÊM VU LAN
Hoàng Kim

Chẳng thể nào ngủ được đêm nay
Đêm Vu Lan mờ tỏ
Trăng rằm khuya lồng lộng giữa trời
Thăm thẳm một lời Người nói …

Mẹ cũ như ngôi nhà cũ
Chiếc áo mẹ mang bạc phếch tháng năm
Cha cũ như con thuyền cũ
Dòng sông quê hương thao thiết đời con

Anh chị cũ tình vẹn nghĩa
Trọn đời thương nhau lồng lộng trăng rằm
Em tôi hồn quê dáng cũ
Con cháu niềm vui thương thảo tháng năm.

Thầy bạn lộc xuân đầy đặn
Bài ca thời gian ngời ngợi trăng rằm.

Thắp đèn lên đi em

Đêm Vu Lan gặp bạn
Thương nhớ bài thơ cũ
Chuyện đời không nỡ quên …

Ngày mới và đêm Vu Lan
Vầng trăng Sao Hôm Sao Kim thân thiết.
Loanh quanh tìm tòi cái mới
Đêm Vu Lan thức về lại chính mình.

Đêm Vu Lan nhớ mùa thu đi học
Nhớ ngọn đèn mờ tỏ giấc mơ xưa
Thương con vạc gọi sao mai mọc sớm
Vầng trăng khuya thăm thẳm giữa tâm hồn

Thắp đèn lên đi em (1)
Gốc mai vàng trước ngõ (2)
Tháng bảy mưa ngâu (3)
Đến chốn thung dung (4)

Đối thoại với Thiền sư (5)
Giấc mơ lành yêu thương (6)
Đêm Vu Lan Thơ về Mẹ (7)
Hoa Đất (8) Hoa Người (9)

Đêm Vu Lan nhớ bài thơ đi học
Thấm nhọc nhằn củ sắn củ khoai
Nhớ tay chị gối đầu khi mẹ mất
Thương lời cha căn dặn học làm người

xem tiếp ĐÊM VU LAN Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-9/

MẸ CHA LÀ PHẬT

Giáo sư Nguyễn Văn Bộ 11 FB 1 9 2020  viết:· “Nhiều bạn bè hỏi sao lâu quá không thấy lên face. Nhưng lên “face” mà “cái face của mình” chẳng có gì mới mẻ cũng ngại. Nhân hôm nay đọc bài “Mẹ cha là Phật” của tác giả Hoàng Anh Sướng mới ngộ thêm về câu cửa miệng “”Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa” nên chia sẻ để mọi người cùng suy ngẫm, nhất là trong mùa lễ Vu Lan!”. Cảm ơn anh Nguyễn Văn Bộ xin được chép lại.
*
Nhà văn hóa Phan Oanh đã thốt lên chua xót với tôi: “Dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Bao giờ dân ngộ đạo mới là điềm thịnh của quốc gia”.Tháng Bảy âm lịch là mùa Vu Lan báo hiếu. Nhưng với tín ngưỡng dân gian, đây cũng là tháng cô hồn. Đến các đình chùa, miếu mạo, ta luôn thấy cảnh nườm nượp người chen lấn đi lễ, khấn vái xì xụp, khói nhang, khói đốt tiền vàng mù mịt. Một số người chứng kiến cảnh đó thì lạc quan cho rằng, đó là vì dân ta mộ đạo, đạo ở Việt Nam đang thịnh. Nhưng với tôi, đó là một thực trạng đáng buồn, đáng lo, thậm chí, rất đáng báo động. Vì sao?

Ngạn ngữ dân tộc ta có câu: “Thứ nhất là tu tại gia, thứ nhì tu chợ thứ ba tu chùa”. Nhà văn hóa tâm linh Phan Oanh tạm cắt nghĩa rằng, thứ nhất tu tại gia không phải là cúng lễ tại nhà. Đó là mối quan hệ giữa người với người trong huyết tộc. Ví như cha mẹ tôi sinh hạ được 5 người con. Nhưng bố mẹ nói “chỉ thích ở với cô Oanh thôi”, thì cô Oanh nuôi mẹ, đó là nhân duyên, cái lý của nhà Phật. Lúc khỏe cụ trông nhà cho là duyên. Lúc ốm thì là nợ. Cụ ở với tôi thì dứt khoát nhân tài, vật lực, công hạnh, bản thân tôi phải cống hiến 70%, còn bốn vị kia chỉ có 30% thôi.

Nếu vô đạo, tôi sẽ bảo rằng, cụ đẻ ra được 5 người chứ không phải mình tôi, các ông bà chia nhau đến để mà hầu cụ. Còn nếu tôi ngộ đạo, tôi làm bằng sự tự nguyện, tôi được công đức. Đấy mới là tu. Chứ không phải rằm, mồng một, con không đến chùa, con lễ ở nhà là tu tại gia.”Thứ nhì tu chợ” là mối quan hệ ngoài huyết tộc nhưng diễn ra sắc tục. Chị tử tế, chị đi chợ đoan trang. Bà nhẹ nhàng, bà đi chợ ý nhị. Tôi tham, tôi mua một cái cải bắp, bằng được tay nem tay chanh thêm cho bác củ hành. Qua hành vi mua bán bộc lộ hết tính nết, bao nhiêu “nọc độc” có cơ lộ rõ, đi đến công đường không nghĩ chuyện làm chỉ nghĩ chuyện lật đổ. Trong khi đó, trong số mệnh mình, nếu mình hiểu mình chỉ là quân xe thì làm sao mình lên tướng được. “Vốn” của mình nó thế, nó phải thế. Phật nói rất rõ ràng, nó là nhân quả. Còn nếu hiểu, kiếp này mình rất giỏi nhưng chỉ làm trợ lý, làm quân xe thì mình làm hoàn thành công việc của xe. Mình đã đắc đạo.

“Thứ ba tu chùa” nghĩa là tu ở nhà cho tâm sáng, ứng xử ở ngoài cho đức rộng thì anh đến chùa là báo công với người Mẹ thiên nhiên. Mà một là công, hai là tội. Ở Việt Nam bây giờ, người hư đi lễ nhiều. Tôi biết có người đánh đề ngày nào cũng đi lễ, người ham cà phê cá độ bóng đá, người chạy trốn pháp luật, buôn gian bán lận rất chăm đi lễ… Còn những người đổ mồ hôi sôi nước mắt, đầu tắt mặt tối làm quần quật thì thời gian đâu mà đi lễ. Cho nên, dân sính lễ là điềm suy xã tắc. Cho nên, phải tốt từ nhà, tốt đến xã hội rồi mới tới tốt lễ. Một câu đơn giản mà tôi thấm thía vô cùng, càng ngẫm càng thấy đúng.

Ai ưu thời mẫn thế cũng lo lắng trước sự băng hoại của đạo đức xã hội. Tôi nghĩ, một nền đạo đức xã hội tốt đẹp, nhân văn trông cậy rất nhiều vào tôn giáo, trong đó có đạo Phật. Song muốn phục vụ xã hội tốt thì trước hết, các nhà tu hành phải thanh lọc hàng ngũ của mình, thanh lọc thân, khẩu, ý của mình thì mới có thể giúp thanh lọc xã hội. Đạo Phật không chỉ là một tôn giáo mà còn là kho tàng tuệ giác với những phương pháp rất cụ thể có thể giúp con người tháo gỡ, chuyển hóa khó khăn, khổ đau, kiến tạo tình thương, hạnh phúc, ngăn được sự sa đọa.

Bên cạnh đó, một nền đạo đức xã hội tốt đẹp bao giờ cũng được xây dựng bắt đầu từ chữ “hiếu”. “Hiếu” là lòng hiếu thảo, tôn kính, yêu thương cha mẹ, ông bà, tổ tiên. Một người không biết yêu thương cha mẹ khó mà yêu thương người khác. Không phải ngẫu nhiên, tổ tiên chúng ta đã đề cao chữ “hiếu”, đã ý thức thiết lập một xã hội tốt đẹp trên nền tảng của đạo “hiếu”. Đạo Phật cũng đề cao chữ “hiếu”. Mùa Vu Lan vào tháng bảy âm lịch chính là mùa để ta tưởng nhớ và báo hiếu công ơn cha mẹ. Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã sáng tạo ra lễ Bông hồng cài áo. Bông hồng là biểu tượng của tình yêu, sự cao quý. Người đến chùa những ngày này đều không quên dừng lại để cài lên ngực một bông hồng. Bông hồng đỏ cho những ai may mắn còn cha mẹ, bông màu hồng cho những người còn mẹ mất cha và bông hồng trắng cho những người kém may mắn khi không còn cha, mẹ trên đời.Điều đáng mừng là những năm gần đây, tại các chùa và hội đoàn Việt Nam, vào lễ Vu lan, nghi thức “bông hồng cài áo” ngày càng trở nên phổ biến. Cũng vào ngày này năm ngoái, tại Hiên trà Trường Xuân, Hà Nội, tôi và những người bạn đạo đã tổ chức đêm Vu Lan với chủ đề “Bạn đã hôn cha mẹ bao giờ chưa?”. Trong không gian tĩnh lặng, chúng tôi cùng nhau ngồi thiền, tĩnh tâm lắng nghe tùy bút “Bông hồng cài áo” của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Chúng tôi cùng chia sẻ những câu chuyện cảm động về tình mẫu tử thiêng liêng. Rất nhiều giọt nước mắt đã rơi. Có những giọt nước mắt cảm động, song có cả những giọt nước mắt ân hận, xót xa của người từng có những lời nói, việc làm khiến cha mẹ buồn lòng. Chúng tôi chợt hiểu về lẽ vô thường ở đời. Rằng có thể ngày mai, mình sẽ không còn cha mẹ nữa. Bởi vậy, nếu như muốn nói lời yêu thương nào, muốn làm điều gì tốt đẹp hiến tặng cha mẹ, ta phải nói ngay bây giờ, làm ngay lúc này.

Đúng như Thiền sư Thích Nhất Hạnh chỉ dẫn: chiều nay khi đi học hoặc làm việc ở sở về, em hãy ngồi xuống bên mẹ, nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để biết rằng mẹ đang còn sống và đang ngồi bên em. Em sẽ nói: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?”. Câu hỏi không cần được trả lời. Mẹ và em sẽ sung sướng, sẽ sống trong tình thương bất diệt. Và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau lòng.

Tương truyền Đức Phật dạy rằng, vào thời chưa có Phật ra đời thì thờ cha, thờ mẹ cũng là thờ Phật. Vì cha mẹ là Phật đó. Đừng mất công đi tìm Phật ở nơi nào khác. Cha mẹ chính là Phật sống trong nhà. Ngày hôm nay, ta nói được lời yêu thương nào, làm được điều gì tốt đẹp để cha mẹ vui thì làm ngay đi, đừng để đến ngày mai, e rằng quá muộn.

Đọc NHỮNG NGƯỜI LÍNH SINH VIÊN của Lê Anh Quốc
FB Phan Chi

xem toàn văn: Thông tin tại http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-1-thang-9/

  1. MẸ

Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ. Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run. Như là để thật tôi hơn Mẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào. Nhận ra, mắt Mẹ lệ trào Rưng rưng…vào khoảng khát khao con về.Và tôi cứ thế lặng đi Trước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà. Mấy năm đánh giặc đường xa Chẳng ngờ đâu Mẹ tôi già thế kia? Hàm răng đen nhánh ngày xưa Đi đâu vội,để nắng mưa cối trầu? Hạt sương kéo sợi trên đầu Bảo tôi: Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi. Mắt huyền xưa buộc Cha tôi Bây giờ,Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm. Mỏng manh chiếc áo vải mềm,Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu. Yếm Người nào có rộng đâu. Mà sao như thửa đất giàu mênh mông…Ở đây cũng thể Thành đồng Ở đây nuôi những Anh hùng nước non.Yếm vuông cho giọt sữa tròn Đọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày. Con về với Mẹ hôm nay Thật đây! Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ! Mẹ tôi giờ, mắt đã lòa Nhìn tôi bằng ngón tay già… rưng rưng…

Video nhạc tuyển
https://www.facebook.com/nguyenhung.canhbuom/videos/2794060667505823 https://www.youtube.com/embed/yiyj9z4Btr4?version=3&rel=1&showsearch=0&showinfo=1&iv_load_policy=1&fs=1&hl=vi&autohide=2&wmode=transparent

HỒÌ CHUÔNG CỦA MẸ
Thơ Hoàng Đình Quang
Nhạc Minh Thu
Video Nguyên Hùng


Sẽ có một ngày mẹ phải ra đi
Mẹ ra đi về nơi xa lắm
Sẽ có một ngày bên bờ xa vắng
Hồi chuông reo mẹ đã xa con

Ơi những đoạn đường dài, quanh co và cay đắng
Gánh chúng con, mẹ đã đi qua
Vết chân trần giờ mẹ không bước nổi
Mẹ mẹ ơi,con sợ hồi chuông reo

Sao là mẹ tôi phải nhọc nhằn sớm tối
Phải gian nan gánh chịu phần con
Sao sao cứ phải sinh ly từ biệt
Vòng luân hồi kia có còn gặp mẹ không

Mẹ ơi hơi ấm mẹ nguội dần
Một ngày kia,khung trời đầy nước mắt
Các con gọi mẹ
mẹ mẹ ơi.

NGHÊ VIỆT AM NGỌA VÂN
Hoàng Kim


Nghê Việt am Ngọa Vân thuộc chùm bài viết Ngọc di sản Việt Nam của TS Hoàng Kim gồm các bài Di sản thế giới tại Việt Nam, Nông nghiệp sinh thái Việt; Nghê Việt trong Hồn Việt, Nghê Việt am Ngọa Vân, Nhà Trần trong sử Việt, Lời dặn của Thánh Trần, Yên Tử Trần Nhân Tông, Lên non thiêng Yên Tử, Trúc Lâm Trần Nhân Tông, Thầy Tuệ Trung Thượng Sĩ, Ân tình Đất Phương Nam, Nhân Tông Đêm Yên Tử, Tảo Mai nhớ Nhân Tông, Hoa Đất thương lời hiền,

NGHÊ VIỆT TRONG HỒN VIỆT

Trầm tĩnh tự cũng cố; Nghê Việt trong hồn Việt; Tinh khôn, lành, trung thành. Văn hóa giá trị cao. Nghê Việt là biểu tượng rồng ẩn, một trong những sáng tạo đỉnh cao của văn hóa Việt. “Sách Nhàn đọc dấu câu có câu không” ẩn hiện như tiềm long, một trong chín đứa con của rồng (long sinh cửu tử) theo thời mà biến hóa. xem https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nghe-viet-trong-hon-viet/

Nghê Việt là linh vật rồng ẩn thuần Việt trong “chín đứa con của rồng” (Long sinh cửu tử) và được phổ biến rộng trong dân gian thời Trần và được đúc kết bởi tác phẩm ““Tiềm Xác Loại Thư” của Trần Nhân Tích. Toan Nghê là linh vật có sức mạnh phi thường giống như sư tử, như mèo thần, thích nghỉ ngơi, điềm tĩnh, chăm chú chọn cơ hội, nhưng khi ra tay thì cực kỳ mau lẹ, dũng mãnh và hiệu quả. Kim Nghê là linh vật giống như kỳ lân, trâu ngựa thần, có tài nuốt lửa nhả khói, nội lực thâm hậu, nhanh mạnh lạ lùng, dùng để cưỡi đưa chủ nhanh đến đích. Nghê Dân Gian là linh vật gác cổng giữ nhà hiền lành, tin cẩn như chó nhà và hung dữ, nguy hiểm, tinh khôn như chó sói. Nghê Thường là linh vật ngây dại như trẻ thơ, nhởn nhơ như nai rừng, tin yêu như thục nữ nhưng vô cùng quý hiếm. Hoàng Kim đồng tình với Huỳnh Thiệu Phong Mấy vấn đề về nguồn gốc, đặc điểm của biểu tượng “Nghê” trong văn hóa Việt Nam đã nhận xét: “Nghê” chính là một sáng tạo nghệ thuật đỉnh cao, phản ánh rõ nét nhân sinh quan của người Việt trong những giai đoạn lịch sử của dân tộc“ .

Cảm ơn Di sản Việt Nam VIET NAM LAGECY , Trần Trọng Đức, Nguyễn Tuấn Sơn, bảo tồn và phát triển Nghê Việt trong Hồn Việt, sự đồng hành trân quý .https://www.facebook.com/groups/431138530886759/posts/792019438131998/.

AM NGỌA VÂN YÊN TỬ

Am Ngoạ Vân (hay Chùa Ngoạ Vân) nay thuộc thôn Tây Sơn, xã Bình Khê huyện Đông Triều, Quảng Ninh. Chùa nằm ở sườn Nam của ngọn núi cao thuộc dãy núi Yên Tử, núi có tên chữ là Bảo Đài Sơn hay núi Vảy Rồng hoặc Vây Rồng như cách gọi của nhân dân địa phương ngày nay. Chùa nằm ở độ cao khoảng 600m so với mặt nước biển. Đó là những kết quả, tư liệu và bằng chứng khoa học thu được qua quá trình điều tra, khảo sát của Nguyễn Vân Anh ở Viện Khảo cổ học, với tư cách là người trực tiếp tham gia cuộc điều tra nghiên cứu quần thể di tích Ngoạ Vân và Hồ Thiên, xã Bình Khê, Đông Triều Quảng Ninh.

Nửa đêm, ngày Mồng một tháng Mười một năm Mậu Thân (1308), sao sáng đầy trời, Trúc Lâm hỏi: “Bây giờ là mấy giờ?”. Bảo Sát thưa: “Giờ Tý”. Trúc Lâm đưa tay ra hiệu mở cửa sổ nhìn ra ngoài và nói: “Đến giờ ta đi rồi vậy”. Bảo Sát hỏi: “Tôn sư đi đâu bây giờ?”. Trúc Lâm nói: “Mọi pháp đều không sinh. Mọi pháp đều không diệt. Nếu hiểu được như thế. Chư Phật thường hiện tiền. Chẳng đi cũng chẳng lại”. ( trước đó) sách “Tam tổ thực lục”, bản dịch, Tư liệu Viện Khảo cổ học, ký hiệu D 687, trang 12 ghi: “Ngày 18 ngài lại đi bộ đến chùa Tú Lâm ở ngọn núi Kỳ Đặc, Ngài thấy rức đầu. Ngài gọi hai vị tì kheo là Tử Danh và Hoàn Trung lại bảo: ta muốn lên núi Ngoạ Vân mà chân không thể đi được thì phải làm thế nào? Hai vị tỳ kheo bạch rằng hai đệ tử chúng tôi có thể đỡ đại đức lên được. Khi lên đến núi, ngài cảm ơn hai vị tỷ kheo và bảo các ngươi xuống núi tu hành, đừng lấy sự sinh tử làm nhàm sự. Ngày 19 ngài sai thị giả Pháp Không lên am Tử Tiêu ở núi Yên Tử giục Bảo Sát đến ngay núi Ngoạ Vân….. Ngày 21, Bảo Sát đến núi Ngoạ Vân, Ngài thấy Bảo Sát đến mỉm cười nói rằng ta sắp đi đây, sao ngươi đến muộn thế?” Sách Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nhà Xuất Bản Văn hoá Thông tin, 2004, trang 570 chép “Mùa đông tháng 11, … ngày mồng 3, thượng hoàng (Trần Nhân Tông) băng ở Am Ngoạ Vân Núi Yên Tử”.

THẦY TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ

Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về tôn chỉ, Thượng sĩ đáp: “Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác”. Trần Nhân Tông bừng tỉnh ngộ, bèn xốc áo, thờ làm Thầy. Thơ Thiền Tuệ Trung Thượng Sĩ sâu sắc, thông tuệ. Đó là những viên ngọc di sản văn hóa đặc biệt quý giá.

Tuệ Trung Thượng Sĩ là ai?

Tuệ Trung Thượng Sĩ (慧中上士; 1230- 1291) là Hưng Ninh Vương Trần Tung, danh tướng và thiền sư nổi tiếng đời Trần. Ông là con trưởng của An Sinh Vương Trần Liễu, anh ruột của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và Hoàng hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm húy Thiều, vợ vua Trần Thánh Tông. Ông có công lớn trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông năm 1258, 1285 và 1288. Sau kháng chiến thành công, ông được phong chức Tiết độ sứ cai quản phủ Thái Bình. Nhưng không lâu sau ông lại lui về ấp Tịnh Bang (nay ở huyện Vĩnh Bảo, ngoại thành Hải Phòng) lập Dưỡng Chân trang để theo đuổi nghiệp Thiền. Vua Trần Nhân Tông hỏi Tuệ Trung Thượng Sĩ về tôn chỉ, Thượng sĩ đáp: “Hãy quay về tự thân chứ không tìm ở đâu khác”. Trần Nhân Tông bừng tỉnh ngộ, bèn xốc áo, thờ làm Thầy. Đức Nhân Tông có bài tán về Tuệ Trung: “Vọng chí di cao, Toàn chi di kiên. Hốt nhiên tại hậu, Chiêm chi tại tiền. Phu thị chi vị, Thượng sĩ chi Thiền. Nghĩa là: Nhìn lên càng thấy cao,/ Khoan vào càng thấy cứng./ Bỗng nhiên ở phía sau,/ Nhìn lại thấy phía trước./ Cái đó gọi là:/ Đạo Thiền của Thượng sĩ.” Quyển Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục nằm trong bộ “Trần Triều Dật Tồn Phật Điển Lục”, là bộ Phật điển còn sót của đời nhà Trần. Tập sách này rất quan yếu trong nhà Thiền, nhất là Thiền tông Việt Nam.“ Sách này do Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông khảo đính, thiền sư Pháp Loa biên tập, thiền sư Huệ Nguyên khắc in lại năm 1763. Chứng tích ở Kỳ Lân thiền viện (Hoàng Kim trích dẫn theo Thích Thanh Từ DL 1996 – PL 2540, Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục giảng giải)

Hành trạng Thượng Sĩ Trần Tung

Thượng Sĩ là con đầu của Khâm Minh Từ Thiện Thái Vương (Trần Liễu), là anh cả của Hoàng thái hậu Nguyên Thánh Thiên Cảm. Khi Đại vương mất, Hoàng đế Thái Tông cảm nghĩa phong cho Thượng Sĩ tước Hưng Ninh Vương.

Lúc nhỏ, Thượng Sĩ nổi tiếng bẩm chất cao sáng thuần hậu. Được cử trấn giữ quân dân đất Hồng Lộ, hai phen giặc Bắc xâm lăng, Ngài chống ngăn có công với nước, lần lượt thăng chức Tiết độ sứ giữ cửa biển Thái Bình. Thượng Sĩ là người khí lượng uyên thâm, phong thần nhàn nhã. Tuổi còn để chỏm, Ngài đã mến mộ cửa Không. Sau Ngài đến tham vấn Thiền sư Tiêu Dao ở Tinh xá Phước Đường. Ngài lãnh hội được yếu chỉ, dốc lòng thờ làm thầy. Hằng ngày, Ngài lấy Thiền duyệt làm vui, không lấy công danh làm sở thích. Ngài lui về ở phong ấp Tịnh Bang, đổi tên là làng Vạn Niên. Hòa ánh sáng lẫn với thế tục (hòa quang đồng trần), Ngài cùng mọi người chưa từng chống trái, nên hay làm hưng thạnh hạt giống chánh pháp, dạy dỗ được hàng sơ cơ, người đến hỏi han, Ngài đều chỉ dạy cương yếu, khiến họ trụ tâm, tánh Ngài tùy phương tiện khi hiện khi ẩn, trọn không có danh thật.

Vua Thánh Tông nghe danh Ngài đã lâu, bèn sai sứ mời vào cửa khuyết. Ngài đối đáp với Vua đều là những lời siêu thoát thế tục. Nhân đó, vua Thánh Tông tôn Ngài làm Sư huynh, tặng hiệu là Tuệ Trung Thượng Sĩ. Ngài vào cung thăm, Thái hậu mở tiệc thịnh soạn tiếp đãi. Dự tiệc, Ngài gặp thịt cứ ăn. Thái hậu lấy làm lạ hỏi: “Anh tu thiền mà ăn thịt, đâu được thành Phật?”

Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm Phật, Phật chẳng cần làm anh, không nghe Cổ đức nói: ‘Văn Thù là Văn Thù, Giải Thoát là Giải Thoát’ đó sao?”

Thái hậu qua đời, nhà Vua làm lễ trai tăng ở cung cấm. Nhân lễ khai đường, Vua thỉnh những vị danh đức các nơi, theo thứ lớp mỗi vị thuật bài kệ ngắn để trình kiến giải. Kết quả thảy đều quyến sình ủng nước, chưa có chỗ tỏ ngộ. Nhà Vua lấy quyển tập đưa Thượng Sĩ. Thượng Sĩ cầm viết xóa một mạch, rồi làm bài tụng tự thuật rằng:

Thơ Thiền Tuệ Trung Thượng Sĩ

Thượng Sĩ tự thuật (1)

Kiến giải trình kiến giải
Tợ ấn mắt làm quái
Ấn mắt làm quái rồi
Rõ ràng thường tự tại.

Nhà Vua đọc xong, liền phê tiếp theo sau:

Rõ ràng thường tự tại
Cũng ấn mắt làm quái
Thấy quái chẳng thấy quái
Quái ấy ắt tự hoại.

Thượng Sĩ đọc, thầm nhận đó.

Sau Vua kém vui, Thượng Sĩ viết thơ hỏi thăm bệnh. Vua đọc thơ, trả lời bằng bài kệ:

Hơi nóng hừng hực toát mồ hôi
Chiếc khố mẹ sanh chưa thấm ướt.

Thượng Sĩ đọc kệ than thở giây lâu. Đến khi Vua bệnh nặng, Thượng Sĩ khập khễnh về kinh thăm, nhưng đến nơi Vua đã qui tiên rồi.

Riêng tôi (Sơ tổ Trúc Lâm) nay cũng nhờ ơn Thượng Sĩ dạy dỗ. Lúc tôi chưa xuất gia, gặp tuần tang của Nguyên Thánh mẫu hậu, nhân thỉnh Thượng Sĩ. Thượng Sĩ trao cho tôi hai quyển lục Tuyết Đậu và Dã Hiên. Tôi thấy Ngài thế tục quá sanh nghi ngờ, bèn khởi tâm trẻ con trộm hỏi rằng:

– Chúng sanh do nghiệp uống rượu ăn thịt, làm sao thoát khỏi tội báo?

Thượng Sĩ bảo cho biết rõ ràng:

– Giả sử có người đứng xây lưng lại, chợt có Vua đi qua sau lưng, người kia thình lình hoặc cầm vật gì ném trúng Vua, người ấy có sợ không? Vua có giận chăng? Như thế nên biết, hai việc này không liên hệ gì nhau.

Thượng Sĩ liền đọc hai bài kệ để dạy:

(13)

Vô thường các pháp hạnh
Tâm nghi tội liền sanh
Xưa nay không một vật
Chẳng giống cũng chẳng mầm.

(14)

Ngày ngày khi đối cảnh
Cảnh cảnh từ tâm sanh.
Tâm cảnh xưa nay không
Chốn chốn ba-la-mật.

Tôi (Trần Nhân Tông chứng tích) lãnh hội ý chỉ hai bài tụng, giây lâu hỏi: “Tuy nhiên như thế, vấn đề tội phước đâu dè đã rõ ràng.”

Thượng Sĩ lại dùng kệ để giải rõ:

(15)

Ăn rau cùng ăn thịt
Chúng sanh mỗi sở thuộc.
Xuân về trăm cỏ sanh
Chỗ nào thấy tội phước?

Tôi (Trần Nhân Tông chứng tích) thưa: “Chỉ như gìn giữ giới hạnh trong sạch, không chút xao lãng lại thế nào?”

Thượng Sĩ cười không đáp.Tôi lại thỉnh cầu. Ngài lại nói hai bài kệ (16 và 17) để ấn định đó:

(16)
Giữ giới cùng nhẫn nhục
Chuốc tội chẳng chuốc phước.
Muốn biết không tội phước
Chẳng giữ giới nhẫn nhục.

(17)

Như khi người leo cây
Trong an tự cầu nguy.
Như người không leo cây
Trăng gió có làm gì?

Ngài lại dặn nhỏ tôi: “Chớ bảo cho người không ra gì biết.” Tôi biết môn phong của Thượng Sĩ cao vót. Một hôm tôi xin hỏi Ngài về “bổn phận tông chỉ”, Thượng Sĩ đáp: “Soi sáng lại chính mình là phận sự gốc, chẳng từ nơi khác mà được.” (Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.) Nghe xong, tôi thông suốt được đường vào, bèn vén áo thờ Ngài làm thầy.

Ôi! Tinh thần sắc vận của Thượng Sĩ thật trang nghiêm, cử chỉ thẳng thắn uy đức, lời bàn huyền nói diệu, dường gió mát trăng thanh, những hàng thạc đức đương thời đều bảo Thượng Sĩ tin sâu hiểu rõ, thuận hạnh nghịch hạnh thật khó lường được.

Sau Ngài bệnh ở Dưỡng Chân Trang, chẳng ở trong phòng thất. Kê một chiếc giường gỗ ở giữa nhà trống, Ngài nằm theo thế kiết tường, nhắm mắt mà tịch. Các người hầu và thê thiếp trong nhà khóc rống lên. Thượng Sĩ mở mắt ngồi dậy, đòi nước súc miệng rửa tay, rồi quở nhẹ rằng: “Sống chết là lẽ thường, đâu nên buồn thảm luyến tiếc, làm nhiễu động Chân tánh ta.” Nói xong, Ngài an nhiên thị tịch, thọ sáu mươi hai tuổi. Bấy giờ là ngày mùng một tháng tư năm Tân Mẹo, nhằm niên hiệu Trùng Hưng thứ 7 (1291) đời vua Trần Nhân Tông.

Tôi (Trần Nhân Tông chứng tích) đích thân đến dinh của Ngài, có làm bài tụng “Thắp Hương Đền Ơn”, không chép lại đây.

Sau khi tôi được truyền nối pháp, mỗi khi khai đường thuyết pháp, tự nhớ đến tứ trọng ân, nhất là ân pháp nhũ khó đền. Tôi sai họa sĩ vẽ chân dung của Ngài, để được cúng dường, tự thuật bài tụng để tán thán. Đề rằng:

Lão cổ chùy này
Người khó diễn tả
Thủ xích Lương Hoàng
Cây dùi Tần Đế.
Hay vuông hay tròn
Hay dày hay mỏng
Biển pháp một mắt
Rừng thiền ba góc.

Các hàng môn đệ tán tụng:

– Đệ tử nối pháp Trúc Lâm Đại Đầu-đà tán:

Trông đó càng cao
Dùi đó càng cứng.
Bỗng dưng ở sau
Nhìn đó ở trước.
Đây mới gọi là
Thiền của Thượng Sĩ.

– Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Pháp Loa cúi đầu kính cẩn tán:

Á!
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành.
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh.
Chao!

– Trúc Lâm đàn cháu nối pháp đệ tử Bảo Phác cúi đầu kính cẩn tán:

Linh Sơn chính tai nghe
Nhai tủy lão Hồ trọc
No rồi mớm cháu con
Chồn cáo hóa sư tử.
Gặp trường nói nín nhàn
Trăng tẩm nước sông thu
Muốn biết toàn vị mặn
Trả con chuột kia đi.

– Đệ tử Tông Cảnh cúi đầu kính cẩn tán:

Thiền thầy ta con quì một chân
Bờ dốc buông tay tâm như như.
Trên đầu cột phướn nấu quả chùy
Bỗng nhiên cỡi ngược lừa ba cẳng.
Năm trước tặng ta trâu đất rống
Ngày nay ngựa gỗ hí trả Ngài.
Trâu sắt đầu nhỏ sừng co quắp
Đêm về húc vỡ núi Tu-di.
Thảnh thơi nhảy thẳng hang rồng dữ
Cướp được san-hô quí một cành
Thần biển nâng lên sáng trời đất
Na-tra nổi giận uy đức mờ.
Ha! Ha! Ha! Cũng rất kỳ
Dương Xuân Bạch Tuyết hòa rất ít
Một mức sau cùng hội thế nào?
Án tố rô, tố rô, tất rị, tất rị.

– Đệ tử cư sĩ hiệu Thiên Nhiên, Vương Như Pháp cúi đầu kính cẩn tán:

Thật kỳ đặc! Thật kỳ đặc!
Trâu đất rống trăng không kẹt mắc
Viết ra sáu bảy trí tuệ môn
Chớ nói núi bút cùng rừng mực.

– Trúc Lâm Thị giả đệ tử Pháp Cổ cúi đầu kính cẩn tán:

Xưa Quốc sư, nay Thượng Sĩ
Cùng một trượng phu chia đây kia.
Tác giả Tỳ-da đứng dưới gió
Lão ngốc Bàng công một trái cà.
Giáo giáp ba huyền phá lao quan
Trên chớp lông mày thôi nghĩ suy.
Màn mắt che mất núi Tu-di
Trong miệng nuốt ngang nước biển cả.
Dưới hàm rồng dữ đục ly châu
Phóng sợi tơ sen cột cọp lớn.
Pháp vương vương pháp mặc tung hoành
Nắm tay chung đường quên mi tớ.
Rảnh rang đùa gẩy đàn không dây
Làng múa thôn ca câu: La lý!
Lý la la! La lý lý!
Chẳng thuộc cung thương giác vũ rành
Thầy tôi nối tiếng ông Như Điệu
Phong thái khác thường lại đẹp thêm.
Tử Kỳ mất rồi tri âm ít
Bao điều cao rộng ở nơi nao?
Người sau tiếp vang nối lời rỗng
Nhận được như xưa lại chẳng phải
Ôi!

– Trúc Lâm Thị giả Tuệ Nghiêm kính cẩn tán:

Lò hồng điểm tuyết
Tháng chạp hoa sen.
Chẳng bút khá viết
Chẳng lời khá phô.
Chọi đá nháng lửa
Điện xẹt chớp sáng.
Chẳng tìm khá tìm
Chẳng chốn khá chốn.
Đó là Thượng Sĩ
Khó lường cơ Ngài
Hòa cùng ánh sáng
Đồng với tục tăng.
Tỳ-da nắm tay
Hoành Dương kết mày
Vòng vàng lùm gai
Nuốt đó thấu đó.
Con trâu con khỉ
Đánh vào rừng Thiền
Vo tròn cọp dữ
Quỉ thần vườn pháp
Miệng trống rao truyền
Xuân vào cành vàng
Cổ chùy! Cổ chùy!…

Thơ Thiền Tuệ trung Thương Sĩ
hai bài thơ khác

Cây tùng ở đáy khe (2)

Thương cội tùng xanh tuổi bấy niên,
Đừng than thế mọc lệch cùng xiên;
Cột rường chưa dụng người thôi lạ,
Cỏ dại hoa hèn trước mắt chen.

澗底松
最 愛 青 松 種 幾 年
休 嗟 地 勢 所 居 偏
棟 樑 未 用 人 休 怪
野 草 閑 花 滿 目 前

Giản để tùng

Tối ái thanh tùng chủng kỉ niên,
Hưu ta địa thế sở cư thiên;
Đống lương vị dụng nhân hưu quái,
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền.

Nuôi dưỡng chân tính (3)

Thân xác hao gầy há đáng than,
Phải đâu hạc cả lánh gà đàn;
Nghìn xanh muôn thuý mờ non nước,
Góc biển lưng trời: nơi dưỡng chân.

養真養真
衰 颯 形 骸 豈 足 云
非 關 老 鶴 避 雞 群
千 青 萬 翠 迷 鄉 國
海 角 天 頭 是 養 真

Dưỡng chân

Suy táp hình hài khởi túc vân,
Phi quan lão hạc tị kê quần;
Thiên thanh vạn thuý mê hương quốc,
Hải giác thiên đầu thị dưỡng chân.

Trên đây là hành trạng Thượng Sĩ Trần Tung 1230 – 1291 cùng lời khai ngộ Nhân Tông đặc biệt nổi tiếng của Thượng Sĩ đã bền vững với thời gian do chính đức Nhân Tông xác nhận, khảo đính, thiền sư Pháp Loa biên tập, thiền sư Huệ Nguyên khắc in lại năm 1763 và tám bài thơ thiền của Thượng Sĩ (với số thứ tự 1, 2, 3, 13, 14, 15, 16, 17 mà tôi gượng chép thêm để bạn tiện đọc). Phía dưới là chín bài Thơ Thiền Thượng Sĩ (số thứ tự 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11, 12 trong tài liệu tôi đọc được không thấy số mà chỉ do Thượng Sĩ đối cảnh ngẫu hứng viết ra). Tôi xin chép lại để mọi người cùng thưởng lãm. Đây là những áng thơ thiền cực kỳ sâu sắc và thông tuệ. Kính mong thức giả gần xa bổ túc nguyên bản, dị bản, bình giảng, góp ý để giúp hiệu đính và hoàn thiện; xem tiếp tại đây https://hoangkimlong.wordpress.com/category/nghe-viet-am-ngoa-van/

Bài viết mới trên DẠY VÀ HỌC
https://hoangkimvn.wordpress.com bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

Video nhạc tuyển
Ban Mai Bài ca thời gian
MAR AKRAM – Dancing with the wind♥
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam Thung dung Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, Tình yêu Cuộc sống, CNM365; Kim on LinkedIn Kim on Facebook Kim on witter

An vui cụ Trạng Trình


An Vui Cụ Trạng Trình

Sớm mai ngắm mai nở
Ngày mới Ngọc cho đời
Chín điều lành hạnh phúc
An vui cụ Trạng Trình

Thảnh thơi chơi cùng cụ Trạng
Thanh nhàn cùng với tháng năm
Bà và cháu vui chuyện bé
Thầy thì thong thả nấu cơm …


Ngày mới trông thời đoán tiết
Xuân vui trước ngõ chưa tàn
Phải đợi Hạ về Thu tới
Mới hòng Đông đến Xuân sang


Mùa xuân lộc vừng thay lá
Cây đời mầm mới thêm xanh
Nắng sớm ấm dấn trước ngõ
Tiếng chim ríu rít đầy vườn


Ban mai vui cùng cụ Trạng
An nhàn vô sự là tiên (*) .

(*) “Liên Mậu Kỷ Canh Tân
Can qua sinh sát biến”
“Bốc đắc Càn thuần quái
Sơ cửu thoái tiềm long
Ngã bát thế chi hậu
Can qua khởi trùng

#vietnamhoc #cltvn #cnm365 #Thungdung 598 An Vui Cụ Trạng Trình. Bạch Ngọc Kim Hoàng nhân đọc lại #Thungdung, càng thấy tâm đắc lời dặn của cụ Trang Trình: “Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568). Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung Chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543).

Tôi nhớ lời nói chuyện của đại tướng ở Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam. Cụ nói: Quảng Bình quê tôi người dân gọi khoai lang là sâm người nghèo. Quê tôi trước có giống khoai lang ăn rất ngon nhưng dài ngày. Nay thứ đặc sản ấy đã dần khó kiếm vì nhiều năm dân cần khoai cao sản ngắn ngày. Chúng tôi vì nhờ có câu nói cảnh tỉnh chân tình ấy mà suốt đời làm nghề chọn giống sắn khoai năng suất cao, vẫn thiết tha bảo tồn và phát triển giống khoai ngon, sắn ngon. Chúng tôi cũng thấu hiểu rằng mình đừng nên cố chấp với những cái mới còn sai sót mà phải cố gắng bảo tồn tích hợp nhiều cái quý, cái tốt. Chính Trung và Trung Tân là biết tích hợp, biết sai thì phải sửa sai cho bằng được cái lỗi ấy nhưng phải tích hợp được cái mới cái tốt để luôn vươn tới mãi” (Hoàng Kim lồi tâm đắc) xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-vui-cu-trang-trinh/ và video https://youtu.be/lM516c_hvsI

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491–1585) là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn của thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp lý, hợp thời, sáng suốt. Bài tựa về Trạng Trình của tiến sĩ Vũ Khâm Lân có vị trí trọng yếu để tìm hiểu thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Tác phẩm được viết năm 1743 cho tập gia phả dòng họ Trạng Trình sau khi cụ Trạng đã mất khoảng 158 năm. Áng văn xuất sắc này là viên ngọc rất quý của người xưa để hiểu và đánh giá đúng về thân thế và sự nghiệp của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Hoàng Kim duyên may sưu tầm được một số sách và tư liệu quý về Người, đã tuyển chọn và biên soạn thư mục CNM365 “Ngày xuân đọc Trạng Trình” để hàng năm bổ sung hoàn thiện, hổ trợ dạy và học gồm: 1) Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm trong gia phả; 2) Nguyễn Bỉnh Khiêm trên bách khoa thư; 3) Sấm Trạng Trình bản A 262 câu ; 4) Biển Đông vạn dặm giang tay giữ; 5) Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm; 6) Thầy bạn Nguyễn Bỉnh Khiêm; 7) Hậu duệ và học trò Trạng Trình; 8) Giai thoại về Trạng Trình; 9) Nguyễn Bỉnh Khiêm trí tuệ bậc Thầy.

Vũ Khâm Lân còn có tên là Vũ Khâm Thận, sinh năm 1702 tại làng Ngọc Lặc, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tiến sĩ năm 1727 làm quan đến chức Tham tụng, Ngự Sử đài, tước Ôn Quận công. Bài tựa này được chép trong quyển “Công Dư Tiệp Ký” (Những chuyện ghi nhanh trong lúc rãnh việc quan) của Vũ Phương Đề, cuốn 3, tờ 166- 175. Quyển “Công Dư Tiệp Ký” là của Vũ Phương Đề do vậy có người nghi vấn tác giả bài tựa này là Vũ Phương Đề, sinh năm 1697, người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là Bình Giang, Hải Dương, đỗ tiến sĩ năm 1736. Căn cứ trên văn bản thì tác giả “Bài tựa” này là của Vũ Khâm Lân mà Vũ Phương Đề là người chép lại. “Bài tựa” này tuyển chọn từ trích dẫn của nhà nghiên cứu Phạm Đan Quế năm 2000. Bản dịch tại quyển “Bạch Vân Quốc ngữ Thi tập” của Nguyễn Quân, nhà xuất bản Sống Mới – Sài Gòn năm 1974. Đây là một văn bản quý đã trải qua sự sàng lọc của thời gian 277 năm (1743- 2020). Nguồn tư liệu chuẩn mực, tin cậy với những dẫn liệu chọn lọc và xác thực, lời văn chặt chẽ, súc tích, khoáng đạt.

NGUYỄN BỈNH KHIÊM TÌM TRONG GIA PHẢ
Bài tựa Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký Tiến sĩ Vũ Khâm Lân viết năm 1743
Trích Gia phả dòng họ Trạng Trình

Nguyễn Văn Đạt) tự Hành Phủ, đạo hiệu là Bạch Vân cư sĩ, người làng Trung Am, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương. Tiên tổ ngày xưa tu nhân, tích đức nhiều, nay không thể khảo cứu được, chỉ biết từ đời cụ tổ được tập phong Thiếu bảo Tư Quận công, cụ bà được phong Chính phu nhân Phạm Thị Trinh Huệ. Nguyên trước các cụ lập gia cư ở nơi có núi sông bao bọc hợp với kiểu đất của Cao Biền, tay phong thủy trứ danh đời Đường.

Phụ thân cụ Trạng được tặng phong tước Thái bảo Nghiêm Quận công, mỹ tự là Văn Định, đạo hiệu là Cù Xuyên tiên sinh. Cụ Văn Định học rộng, tài cao, có đức tốt và đã có lần sung chức Thái học sinh đời Lê.

Thân mẫu cụ Trạng được phong tặng tước Từ Thục phu nhân. Bà là người làng An Tử Hạ, huyện Tiên Minh cũng thuộc tỉnh Hải Dương, con gáí quan Thượng thư Bộ Hộ Nhữ Văn Lân. Bà thông minh, học rộng, văn hay, lại tinh thông tướng số. Ngay đời Hồng Đức (niên hiệu vua Lê Thánh Tôn), bà đã đoán trước rằng vận mệnh nhà Lê chỉ bốn mươi năm nữa là suy đồi khó gỡ. Bà có chí hướng muốn phò vua giúp nước như một bậc trượng phu nên chỉ chịu kết duyên khi gặp người trai vừa ý. Bà kén chồng đến ngót hai mươi năm, cho đến khi gặp ông Văn Định là người có tướng sinh quý tử, mới thành lập gia thất.

Sau khi lấy ông Văn Định, có lần qua bến đò Hàn thuộc sông Tuyết (sông thuộc làng Cổ Am) gặp một chàng thanh niên khác, bà nhìn người này và ngạc nhiên than rằng “lúc trước không gặp, ngày nay sao đến đây làm gì?”. Bọn theo hầu không hiểu nghĩa gì, cầm roi toan đánh đuổi chàng thanh niên ấy, bà cản lại và hỏi tên họ. khi được biết, bà buồn rầu hối hận đến cả mấy năm trời. Người thanh niên ấy không ai khác hơn là Mạc Đăng Dung, Thái Tổ của nhà Mạc sau này.

Bỉnh Khiêm sinh năm Hồng Đức thứ 21 (tức năm Tân Hợi 1491), lúc nhỏ có vóc dáng kỳ vĩ, chưa đầy một năm đã nói sõi. Một hôm vào buổi sáng sớm, Văn Định được bế cậu trên tay, bỗng thấy cậu nói ngay rằng: “Mặt trời mọc ở phương Đông” ông lấy làm lạ. Xem đó đủ biết con người khác thường, từ lúc thơ ấu đã có vẻ khác thường.

Năm Bỉnh Khiêm được bốn tuổi, thân mẫu dạy cậu học các bài chính nghĩa của Kinh, Truyện (tức các bài chính của các sách Tứ Thư, Ngũ Kinh). Bà dạy bằng cách khi ru, khi hát, nhưng dạy đến đâu cậu thuộc lòng đến đó. Cũng vào khoảng năm ấy, về thi ca, Bỉnh Khiêm đã thuộc vanh vách đến cả mấy chục bài quốc âm (thơ Nôm)…

… Trong tám năm ở triều, tiên sinh dâng sớ hạch tội mười tám kẻ lộng thần, xin đem ra chém để làm gương, bởi vì bản tâm. Tiên sinh chỉ muốn trăm họ được an vui, những người tàn tật mù lòa được hành nghề hát xướng bói toán nhưng rồi thấy người con rể là Phạm Dao ỷ thế lộng hành, tiên sinh sợ liên lụỵ đến mình nên cáo quan về nghỉ. Năm ấy là năm Quảng Hòa thứ hai (1542) đời Hiến Tông nhà Mạc, tiên sinh mới 52 tuổi.

Treo mũ về quê, tiên sinh dựng am Bách Vân ở phía đông làng và vẫn lấy biệt hiệu là Bạch Vân cư sĩ. Tiên sinh bắc hai chiếc cầu là Nghinh Phong và Trường Xuân để hóng mát, đồng thời dựng một cái quán ở bến sông Tuyết gọi là Trung Tân quán, hiện nay quán này còn tấm bia đá làm di tích để lại.

Ngoài ra, tiên sinh còn tu bổ chùa chiền. Tiên sinh thường cùng các lão tăng đàm luận và thường khi thả thuyền dạo chơi Kim hải hay Úc hải để xem người đánh cá. Các chỗ danh lam thắng cảnh như Yên Tử, Ngọa Vân, Kinh Chủ, Đồ Sơn, nơi nào tiên sinh cũng chống gậy trèo lên, thừa hứng ngâm vịnh, có khi quên cả sớm chiều. Mỗi khi ngắm cảnh non cao chót vót, rừng rậm xanh rờn, gió động rì rào, chim ca thánh thót, tiên sinh lại hớn hở tự đắc, phiêu phiêu như một vị lục địa thần tiên (thần tiên ở thế gian).

Thời gian tiên sinh dưỡng lão ở quê hương, tiên sinh không tham dự quốc chính nhưng nhà Mạc vẫn kính như bậc thầy. Mỗi khi có việc trọng đại, vua Mạc thường sai quan về hỏi hoặc mời lên kinh đô nói chuyện. Tiên sinh dâng lên ý kiến được bổ ích rất nhiều. Mỗi lần lên kinh, xong việc, tiên sinh lại xin về, triều đình ân cần lưu lại, thế nào cũng không được. Sau tiên sinh được nhà Mạc xếp vào hạng đệ nhất công thần, phong tước Trình Tuyền hầu, rồi thăng dần tới tước Lại bộ Thượng thư, Thái phó, Trình Quốc công. Ông bà hai đời cũng được truy tặng chức tước, ba người vợ và bảy người con cũng được thứ tự phong hàm.

Năm Cảnh Lịch thứ ba (1555) đời Mạc Tuyên Tôn (Mạc Phúc Nguyên) Thư Quốc công Nguyễn Thiến (người làng Khoa Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông) cùng con trai là Quyện và Miễn (cũng đọc Mồi) về hàng quốc triều (nhà Lê), tiên sinh làm bài thơ gửi cho Thiến trong có câu: Cố ngã tồn cô duy nghĩa tại/ Tri quân xử biến khởi cam tâm (Ta giúp con côi vì nghĩa trọng/ Ông khi xử biến khá cam lòng); Lại có câu: “Vận chuyển nhất chu ly phục hợp/ Tràng giang khởi hữu hạn đông nam (Vận chuyển một vòng tan lại hợp/ Trường giang đâu có hạn đông nam). Thiến xem thơ, trong lòng cảm thấy bứt rứt. Quyện là viên tướng có tài, luôn luôn lập được chiến công. Mạc Phúc Nguyên lấy làm lo ngại sai vời tiên sinh lên hỏi kế. Tiên sinh tâu: “Cha Quyện với hạ thần là chỗ bạn chí thân ngày trước, có lúc đã ở tại nhà thần, nay ra trấn thủ Thiên Trường, đang ở vào tình thế bán tín bán nghi nay muốn bắt lại, thật chẳng khó gì, cũng như thò tay vào túi để móc một vật gì ra thôi”. Tiên sinh nói đoạn, xin Mạc Phúc Nguyên giao cho một trăm tráng sĩ, sai đi phục sẵn trên bắc ngạn, rồi tiên sinh gửi thư mời Quyện sang bên thuyền uống rượu để gặp và nói chuyện tâm tình. Quyện nhận lời ngay; thừa lúc quá say, phục binh nổi dậy, bắt cóc đem về nam ngạn. Quyện cảm động quá khóc nức nở. Tiên sinh dẫn Quyện theo lại nhà Mạc và sau đó trở thành một danh tướng lừng lẫy. Nhờ đó nhà Mạc duy trì được mấy chục năm nữa.

Trong thời gian ấy, đức Thế Tổ (tức Trịnh Kiểm) nhà chúa Trịnh đã dấy nghĩa binh, thanh thế vang dội khắp xa gần; trong trận giao tranh ở cửa biển Thần phù, Khiêm Vương Mạc Kính Điển (con thứ của Mạc Đăng Doanh) thua to. Thừa thắng, đức Thế tổ tiến binh theo đường núi phía tây ra tiến đánh Kinh Bắc, trong ngoài nơm nớp lo sợ. Nhà Mạc nhờ tiên sinh hiến kế rất nhiều, mới ổn định được tình thế lúc ấy.

Năm Diên Thành thứ 8 (1585) đời Mạc Mậu Hợp, tiên sinh lâm bệnh. Vua Mạc sai sứ đến thăm và hỏi kế quốc sự. Tiên sinh trả lời: Sau này nước nhà có bề gì thì đất Cao Bằng tuy nhỏ cũng thêm được vài đời (Tha nhật quốc sự hữu cố/Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế). Qủa nhiên, cách bảy năm sau, nhà Mạc mất, các chúa nhà Mạc như Càn Thống, Long Thái, Thuận Đức, Vĩnh Xương rút lên Cao Bằng cũng còn giữ được hơn 70 năm, nghĩa là sau ba, bốn đời mới hoàn toàn bị diệt. Xem đó thấy lời dự đoán của tiên sinh rất nghiệm.

Ngày 28 tháng 11 (âm lịch) năm ấy, tiên sinh tạ thế, hưởng thọ 95 tuổi, học trò tôn hiệu là Tuyết Giang Phu tử. Phần mộ ở trên một mô đất khá cao trong làng…

Năm Thuận Bình thứ tám (1556) vua Lê Trung Tông băng, không hoàng nam nối ngôi, đức Thế Tổ (Trịnh Kiểm) do dự không biết lập ai, hỏi trạng nguyên Phùng Khắc Khoan, cũng không quyết định nổi, mới sai ngầm đem lễ vật ra tận Hải Dương hỏi tiên sinh. Tiên sinh không trả lời, chỉ quay lại bảo các gia nhân rằng: – Vụ này lúa không được mẩy, chỉ tại thóc giống không tốt, vậy hãy đi tìm giống cũ mà gieo mạ. …

Nói xong, tiên sinh xe ra chùa, bảo các chú tiểu quét dọn và thắp nhang, ngoài ra không đã động gì đến chuyện khác, và đó là cái thâm ý tỏ ra cho biết “cứ việc thờ Phật thì sẽ có oản ăn”. Trạng Bùng thấy thế, hiểu ý, xin từ giả. Qua lời kể lại, đức Thế Tổ hiểu ngay, nên đón vua Anh Tôn về lập, tình hình nội bộ mới trở lại bình thường.

Trong thời gian ấy, Đoan Quốc Công Nguyễn Hoàng là con trai thứ Lâm Huân Tĩnh Vương (Nguyễn Kim) đương ở trong tình thế nguy ngập, sợ không thoát khỏi tay Trịnh Kiểm, thân mẫu ông, người làng Phạm Xá, huyện Tứ Kỳ, với tiên sinh là chỗ đồng hương, nên trước cảnh ấy, sai người bí mật về làng nhờ tiên sinh chỉ giúp con trai bà một lối sống. Sứ giả đặt gói bạc nén trước mặt, rồi chắp tay lạy mãi.

Tiên sinh thấy sứ giả cố năn nỉ nhưng vẫn không đáp, rồi đứng phắt dậy, cầm gậy thủng thẳng bước ra sau vườn. Đến chỗ núi non bộ (giả sơn) do mười tảng đá xanh xếp thành một dãy quanh co, tiên sinh thấy trên núi có bầy kiến đang men đá leo lên, đứng ngắm một lúc, mỉm cười đọc:

Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân

Sứ giả hiểu ý trở về thuật lại, Nguyễn Hoàng liền nghĩ ra kế, xin vào trấn thủ Quảng Nam, đến nay con cháu còn hùng cứ một phương.

Trong lúc ngày thường, có lần tiên sinh cùng người học trò là Bùi Thời Cử bói dịch trúng quẻ Càn, thế mà tiên sinh dự đoán “chỉ sau tám đời cuộc can qua nổi dậy”. Sau đúng như thế. Lời đoán của tiên sinh quả thật thần diệu vậy.

Riêng số học trò của tiên sinh thì đông không biết bao nhiêu mà kể. Những người có danh vọng lừng lẫy của bản triều (nhà Lê) như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn Dữ và Trương Thời Cử đều là những người nhờ sự dạy dỗ của tiên sinh.

Nhắc đến Phùng Khắc Khoan khi còn theo học, bỗng một đêm tiên sinh đến thẳng nhà trọ, gõ cửa bảo: “Gà gáy rồi, sao chưa dậy nấu cơm, còn nằm ỳ ngủ vậy?”. Khắc Khoan hiểu ý, vội thu xếp hành lý, tìm đường vào Thanh Hóa, nhưng lại ẩn nơi nhà Nguyễn Dữ, người đã soạn bộ “Truyền kỳ mạn lục”. Bộ này được thành một tác phẩm “thiên cổ kỳ bút” là một phần lớn nhờ sự phủ chính rất nhiều của tiên sinh.

Xem đó thì thấy tiên sinh đối với bản triều (nhà Lê) cũng có góp phần đào tạo một số nhân tài vậy.

Tôi thấy tiên sinh là người lòng dạ khoáng đạt, tư chất cao siêu, sử dụng sự hồn nhiên, không chút cạnh góc, ai hỏi thì nói không thì thôi, đã nói câu gì là câu ấy không xê không dịch. Tiên sinh ở nơi thôn dã, vui với cúc tùng, hơn mười năm trời vẫn không quên nước.

Văn chương của tiên sinh thường bộc lộ cái tấc dạ ưu thời mẫn thế, không cần điêu luyện mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà ý vị, câu câu đều có chỗ ngụ ý răn đời. Thơ Quốc âm của tiên sinh có nhiều, trước đã soạn thành một tập gọi là Bạch Vân Quốc ngữ Thi tập, có cả ngàn bài nhưng nay chỉ còn độ hơn trăm. Thơ Hán tự cũng nhiều nhưng cũng thất lạc, tôi xem cũng đều thấy chứa những ý nghĩa thanh cao và siêu thoát. Thí dụ câu tiên sinh tự thuật chí hướng mình:

Cao khiết thùy vi thiên hạ sĩ An nhàn ngã thị địa trung tiên (Cao khiết ai là thiên hạ sĩ An nhàn ta chính địa trung tiên)

Nói về gia đình thì tiên sinh có ba vợ:

Bà vợ cả người họ Dương, hiệu Từ Ý, quê tỉnh Hải Dương, người cùng huyện, là con gái quan Hình Bộ Thị lang Dương Đức Nhan.

Bà thứ hai, người họ Nguyễn, hiệu Như Tĩnh

Bà thứ ba hiệu Vi Tĩnh, cùng người họ Nguyễn

Tiên sinh có tất cả mười hai người con, gồm bảy người trai, năm người gái. Con trưởng lấy hiệu Hàn Giang Cư sĩ, được tập ấm phong hàm Trung Trinh đại phu, sau làm quan đến chức Phó hiến. Con thứ hai là Túy An tiên sinh được phong hàm Triều Liệt đại phu, tước Quảng Nghĩa hầu. Con thứ ba hàm Hiển Cung đại phu, tước Xuyên Nghĩa bá. Con thứ tư hiệu Thuần Phu, hàm Hoằng Nghị đại phu, tước Quảng Đô hầu. Con thư năm là Thuần Đức, tước Bá Thư hầu (không thấy ghi người con thứ bảy). Mấy người này đều có quân công cả.

Sau đó, Hàn Giang sinh ra Thiết Đức, Thiết Đức sinh Đạo Tiến, Đạo Tiến sinh Đạo Thông. Đạo Thông sinh Đăng Doanh. Đăng Doanh sinh Thời Đương. Thời Đương lúc này đã 65 tuổi, sinh được ba người con trai, đều là cháu tám đời của tiên sinh vậy.

Năm Vĩnh Hựu nguyên niên (Ất Mão 1735 đời Lê Ý Tôn) người trong làng vì nhớ thịnh đức của tiên sinh nên đã dựng hai đền thờ này. Người hàng tổng cũng nhớ ơn đức, xuân thu hai kỳ đến tế lễ. Người trong họ của tiên sinh là Nguyễn Hữu Lý sợ sau này gia phả thất lạc có soạn lại một quyển và nhờ tôi viết cho bài tựa.

Tôi đây là người đất Hồng Châu, nghĩa là cùng quê với tiên sinh, nhưng nay đã cách 190 năm rồi, còn biết gì để viết.

Lúc thơ ấu, tôi cũng thường được nghe các bậc phụ huynh nói chuyện tiên sinh, nhưng cũng chỉ biết đại khái là cụ Trạng Trình thôi. Sau nhân những buổi bình luận về tiên hiền với các quan đại phu, tôi có thêm ít nhiều nên ước có dịp thuận tiện sẽ về tận quê quán của tiên sinh để tìm hiểu cho tường. Ước mãi chưa được vì cứ luôn luôn bị việc quan bó buộc.May thay! Năm Tân Dậu niên hiệu Cảnh Hưng (1741 đời Lê Hiển Tôn) tôi vâng mệnh đổi đi Hồng Châu, nhận thấy cùng với nơi nhà cũ tiên sinh chỉ trong gang tấc, tới lui dễ dàng, nhưng lại vì việc quân ngũ quá bề bộn nên mãi đến mùa xuân năm sau, tức năm Nhâm Tuất, trong khi vâng mệnh đi bối đắp đê sông Nhị Hà, mới thực hiện được ý định nói trên.

Đến quê hương của tiên sinh, tôi tìm đến nền quán Trung Tân, coi tấm bia cũ, nhưng nét chữ đã quá mờ, không sao đọc nổi. Tôi vào đền thờ bái yết, nhân tiện hỏi người cháu bảy đời là Nguyễn Thời Đương để xem hành trạng nhưng cũng không thâu thập được gì. Hỏi thăm các bô lão thì sau cơn binh lửa cũng chẳng còn ai biết; duy chỉ có viên hương ấp là Trần Bá Quang biết sơ qua về mấy việc cũ. Ông này ôn lại cho nghe bài phú quốc âm tức bài văn bia quán Trung Tân và đưa cho một bản lục ít bài thơ của tiên sinh. Nhân tiện tôi hỏi đến những di tích của cầu Trường Xuân, cầu Nghinh Phong rồi đi thăm nơi vườn cũ, tới nơi chỉ thấy ba gian nhà lá. Thời Đương và con cháu hơn mười người cũng ở căn nhà đó.

Tôi nhìn quang cảnh đã sinh lòng hoài cảm, lại trông bốn phía càng bồi hồi nữa. Này phía bên tả trước mặt là một cái đầm và bốn năm cái vũng, tất cả độ vài trăm mẫu, bề sâu chỉ độ hơn trượng, chỗ đứt chỗ nối, chỗ thắt chỗ phình, khi thì yên lặng, khi nắng vàng tỏa, phải chăng đây chính là chỗ kiểu đất Nghiễn trì thủy ảnh (mặt hồ nghiên, ánh nước long lanh) có khí thiêng chung đúc để sinh ra một đại nhân vậy?

Do đó tôi ngâm vịnh thẩn thơ, chẳng muốn dời chân. Ôi! Tôi muốn vì tiên sinh viết bài tựa quyển Gia phả, nhưng ngặt vì việc quân khẩn cấp, còn phải gác bút để đeo gươm, thành thử phải đợi ngày khác nữa.

Năm Quý Hợi (1743 đời Lê Hiển Tôn) khoảng mùa Đông, tôi vâng mệnh đi dẹp bọn thuỷ khấu ở vùng Đồ Sơn, nhân lúc đóng quân trên bờ sông Tuyết, lại đến yết kiến đền thờ của tiên sinh. Bọn Thời Đường cho tôi xem quyển Gia phả và nói : Trước đây đã trãi bao phen loạn lạc, chẳng còn quyển nào, sau họ mới sưu tầm được mấy trang rách, trong đó chỉ biên tên họ tiền nhân, ngoài ra chẳng có gì khác cả. Vì thế tôi phải thâu nhặt ý kiến nhiều người, rồi hợp với những điều mắt thấy tai nghe để viết nên bài tựa. Còn việc sưu tầm những bài thơ của tiên sinh, xếp thành thiên, đóng thành tập, để lưu lại cho đời sau thì xin nhường phấn các vị cao minh khác.

Than ôi Phượng Hoàng, Kỳ Lân, đâu phải những vật thường thấy trong vũ trụ xưa nay, mà có thì chúng phải hiện ở những chỗ như vườn nhà Đường (vua Nghiêu) sân nhà Nhu (vua Thuấn) mới là điềm tốt lành. Như tiên sinh đã có sẵn tư chất thông tuệ lại thâm hiểu đạo học thánh hiền, ví phỏng gặp thời để thi thố sở học thì chắc sẽ tạo ra được cảnh trị bình, biến đổi được thói ở trọc phù bạc ra lễ nghĩa văn minh. Khá tiếc thay, một người có tài đức phù tá Vương nghiệp lại sinh giữa thời đại bá giả, khiến cho sở học không áp dụng được gì. Tuy nhiên, dùng thì làm, bỏ thì ẩn, sự đắc dụng hay không, đối với tiên sinh cũng chẳng quan trọng gì. Tôi rất hâm mộ điểm ấy của tiên sinh. Tiên sinh sinh trưởng trên đất nhà Mạc, có lúc thử ra làm quan để thi hành sở học thì cũng là việc bắt chước việc Khổng Phu Tử xưa đi ra mắt Công Sơn Phất Nhiễu; rồi khi thấy không thể giúp được, vội bỏ đi thì lại muốn theo trí sáng của Trương Tử Phòng theo gót Xích Tùng Tử xưa.

Nay tôi đọc những thi văn còn lại của tiên sinh, cũng chẳng khác nào được nghe tiếng reo ngọc khua vàng, sáng sủa như thái dương, rực rỡ như mây màu, thơ thái như cái phong vị tắm nước sông Nghi rồi lên hóng mát ở Vũ vu của Tăng Điểm ngày trước, và cái phong độ yêu sen thích lan của các tiên nho xưa. Đồng thời cũng như thấy tiên sinh và được bái kiến tiên sinh ở chỗ đang ngồi dạy học vậy.

Ngoài ra, tiên sinh lại là người tinh thông Lý học, thấu triệt họa phúc, biết rõ dĩ vãng và tương lai, cả trăm đời sau chưa chắc đã có ai hơn được.

Ôi ! Thiên hạ xưa nay, các bậc quân vương và hiền giả thiếu gì nhưng sống thì phú quý vinh hoa còn khuất, hỏi thời gian sau, đã có mấy ai được người đời nhắc đến. Còn tiên sinh, nay con cháu đã bảy tám đời mà gần thì sĩ phu, dân thứ còn xem như sao Đẩu trên trời, cho cách nghìn năm cũng còn mường tượng như mới buổi sớm nào; xa thì sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu. Như thế, đủ biết tiên sinh là người rất mực của nước ta về thời đại trước vậy

NGUYỄN BỈNH KHIÊM TRÊN BÁCH KHOA THƯ

Hoàng Kim khởi thảo mục https://vi.wikipedia.org/wiki Nguyễn Bỉnh Khiêm, Wikipedia Tiếng Việt. đã trên chục năm, nay qua nhiều biến đổi nhờ sự hiệu đính bổ sung của nhiều thức giả.

Nguyễn Bỉnh Khiêm, huý là Văn Đạt, tự Hanh Phủ, hiệu Bạch Vân cư sĩ, thường gọi là Trạng Trình Tuyết Giang phu tử, là nhà giáo, nhà tiên tri, nhà thơ triết lý, nhà văn hoá lớn nhất thời Lê -Mạc, bậc kỳ tài yêu nước thương dân, xuất xử hợp thời, hợp lý, sáng suốt, nhân vật lịch sử ảnh hưởng nhất Việt Nam thế kỷ 16. Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh năm1491 ở Vĩnh Bảo, mất ngày 28 tháng 11 năm 1585, mẹ và bố là Nhữ Thị Thục và Nguyễn Văn Định.

Nguyễn Bỉnh Khiêm có ba người vợ với 12 người con, trong đó có 7 người con trai, con trai trưởng là Nguyễn Văn Chính.; Sau khi ông đậu Trạng nguyên khoa thi Ất Mùi năm 1535 và làm quan dưới triều Mạc được phong tước Trình Tuyền Hầu rồi thăng tới Trình Quốc Công, dân gian quen gọi ông là Trạng Trình. Ông là nhà hiền triết phương Đông, nhà tiên tri số một Việt Nam, được sĩ phu, dân thứ xem như sao Đẩu trên trời, cho cách nghìn năm cũng còn mường tượng như mới buổi sớm nào; xa thì sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu theo nhận định của tiến sĩ Vũ Khâm Lân trong Bài tựa Nguyễn Công Văn Đạt phổ ký viết năm 1743 trích Gia phả dòng họ Trạng Trình. Ông trao lại kiệt tác kỳ thư Sấm Trạng Trình sau 500 năm đến nay đã giải mã được các dự báo thiên tài chuẩn xác đến lạ lùng. Đạo Cao Đài sau này đã phong thánh cho ông và suy tôn ông là Thanh Sơn đạo sĩ hay Thanh Sơn chân nhân. Nguyễn Bỉnh Khiêm là danh sĩ tinh hoa, hiền tài muôn thuở của người Việt, dân tộc Việt và nhân loại.

SẤM TRẠNG TRÌNH BẢN A 262 CÂU (*)
Đọc Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm
Hoàng Kim sưu tầm, tuyển chọn, biên soạn và giới thiệu
trên Danh nhân ngày 1 tháng 2 năm 2008.

Sấm ký Nguyễn Bỉnh Khiêm, hay còn gọi là Sấm Trạng Trình, là những lời tiên tri của Nguyễn Bỉnh Khiêm về các biến cố chính của dân tộc Việt trong khoảng 500 năm, từ năm 1515 đến năm 2015. Đây là các dự báo thiên tài, hợp lý, tùy thời, tự cường, hướng thiện và lạc quan theo lẽ tự nhiên “thuận thời thì an nhàn, trái thời thì vất vả”. “Trạng Trình đã nắm được huyền cơ của tạo hóa” (lời Nguyễn Thiếp – danh sĩ thời Lê mạt). “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (lời Chu Xán sứ giả của triều Thanh). Vua Phật Trần Nhân Tông (1258-1308) là người trước thời Nguyễn Bỉnh Khiêm, rất coi trọng phép biến Dịch. Người đã viết trong “Cư trần lạc đạo”: “Kinh Dịch xem chơi, yêu tính sáng yêu hơn châu báu. Sách Nhàn đọc giấu, trọng lòng rồi trọng nữa hoàng kim”. Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Sấm ký”, “Bạch Vân Am thi văn tập”,“Thái Ất thần kinh”, “huyền thoại và di tích lịch sử” đã lưu lại cho dân tộc Việt Nam và nhân loại một tài sản văn hoá vô giá. Sấm ký gắn với những giai thoại và sự thật lịch sử hiện đã được giải mã, chứng minh tính đúng đắn của những quy luật- dự đoán học trong Kinh Dịch và Thái Ất thần kinh”. Đến nay đã có 36 giai thoại và sự thật lịch sử về Sấm Trạng Trình đã được giải mã mà chúng tôi sẽ lần lượt đăng trong các bài nghiên cứu tiếp theo.

Sấm Trạng Trình bản A 262 câu là bản trích từ sách “Thành ngữ, điển tích, danh nhân từ điển” (tập 2) của Trịnh Văn Thanh – Sài Gòn – 1966. Đây là bản phù hợp nhất với bản tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội ( trước đây là Viện Viễn Đông Bác Cổ) và lưu tại Thư viện Quốc gia Hà Nội.; Sấm Trạng Trình gồm 14 câu “cảm đề” và 248 câu “sấm ký”. Tài liệu liên quan hiện có ít nhất ba dị bản, Trong số 20 văn bản, có 7 bản tiếng Hán Nôm lưu tại Thư viện Khoa học Xã hội và Thư viện Quốc gia Hà Nội và 13 tựa sách quốc ngữ về sấm Trạng Trình xuất bản từ năm 1948 đến nay. Bản Sấm Trạng Trình tiếng quốc ngữ phát hiện sớm nhất có lẽ tại Bạch Vân Am thi văn tập in trong Quốc Học Tùng Thư năm 1930 nhưng hiện nay sách này vẫn chưa tìm được.

CẢM ĐỀ
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Thanh nhàn vô sự là tiên
Năm hồ phong nguyệt ruổi thuyền buông chơi
Cơ tạo hoá
Phép đổi dời
Đầu non mây khói tỏa
Mặt nước cánh buồm trôi
Hươu Tần mặc kệ ai xua đuổi
Lầu Hán trăng lên ngẫm mệnh trời
Tuổi già thua kém bạn
Văn chương gửi lại đời
Dở hay nên tự lòng người cả
Nghiên bút soi hoa chép mấy lời
Bí truyền cho con cháu
Dành hậu thế xem chơi.


Nước Nam từ họ Hồng Bàng
Biển dâu cuộc thế, giang sơn đổi dời
Từ Đinh, Lê, Lý, Trần thuở trước
Đã bao lần ngôi nước đổi thay
Núi sông thiên định đặt bày
Đồ thư một quyển xem nay mới rành

Hoà đao mộc lạc,
Thập bát tử thành.
Đông A xuất nhập
Dị mộc tái sinh.

Chấn cung xuất nhật
Đoài cung vẫn tinh.
Phụ nguyên trì thống,
Phế đế vi đinh.

Thập niên dư chiến,
Thiên hạ cửu bình.
Lời thần trước đã ứng linh,
Hậu lai phải đoán cho minh mới tường.

Hoà đao mộc hồi dương sống lại
Bắc Nam thời thế đại nhiễu nhương.
Hà thời biện lại vi vương,
Thử thời Bắc tận Nam trường xuất bôn

Lê tồn, Trịnh tại,
Lê bại, Trịnh vong.
Bao giờ ngựa đá sang sông,
Thì dân Vĩnh Lại quận công cả làng.
Hà thời thạch mã độ giang.
Thử thời Vĩnh Lại nghênh ngang công hầu.

Chim bằng cất cánh về đâu?
Chết tại trên đầu hai chữ quận công.
Bao giờ trúc mọc qua sông,
Mặt trời sẽ lại đỏ hồng non Tây.

Đoài cung một sớm đổi thay,
Chấn cung sao cũng sa ngay chẳng còn.
Đầu cha lộn xuống chân con,
Mười bốn năm tròn hết số thời thôi.

Phụ nguyên chính thống hẳn hoi,
Tin dê lại phải mắc mồi đàn dê.
Dục lòng chim chích u mê,
Thập trên tứ dưới nhất đè chữ tâm.

Để loại quỷ bạch Nam xâm,
Làm cho trăm họ khổ trầm lưu ly
Ngai vàng gặp buổi khuynh nguy
Gia đình một ở ba đi dần dần.
Cho hay những gã công hầu,
Giầu sang biết gửi nơi đâu chuyến này.

Kìa kìa gió thổi lá rung cây
Rung Bắc, rung Nam, Đông tới Tây
Tan tác kiến kiều an đất nước
Xác xơ cổ thụ sạch am mây.

Lâm giang nổi sóng mù thao cát,
Hưng địa tràn dâng hóa nước đầy.
Một ngựa một yên ai sùng bái?
Nhắn con nhà vĩnh bảo cho hay.

Tiền ma bạc quỷ trao tay
Đồ, Môn, Nghệ, Thái dẫy đầy can qua,
Giữa năm hai bẩy mười ba,
Lửa đâu mà đốt tám gà trên mây.

Rồng nằm bể cạn dễ ai hay,
Rắn mới hai đầu khó chịu thay,
Ngựa đã gác yên không người cưỡi
Dê không ăn lộc ngoảnh về Tây.

Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà kia vỗ cánh chập chùng bay
Chó nọ vẫy đuôi mừng thánh chúa
Ăn no ủn ỉn lợn kêu ngày.

Nói cho hay khảm cung ong dậy,
Chí anh hùng biết đấy mới ngoan
Chữ rằng lục, thất nguyệt gian
Ai mà giữ được mới nên anh tài.

Ra tay điều độ hộ mai
Bấy giờ mới rõ là người an dân
Lọ là phải nhọc kéo quân,
Thấy nhân ai chẳng mến nhân tìm về.

Phá điền than đến đàn dê
Hễ mà chuột rúc thì dê về chuồng
Dê đi dê lại tuồn luồn
Đàn đi nó cũng một môn phù trì

Thương những kẻ nam nhi chí cả
Chớ vội sang tất tả chạy rong
Học cho biết chữ cát hung
Biết phương hướng đứng chớ đừng lầm chi
Hễ trời sinh xuống phải thì
Bất kỳ nhi ngộ tưởng gì đợi mong.

Kìa những kẻ vội lòng phú quý
Xem trong mình một tí đều không
Ví dù có gặp ngư ông
Lưới dăng đâu dễ nên công mà hòng

Khuyên những đấng thời trung quân tử
Lòng trung nghi nên giữ cho mình
Âm dương cơ ngẫu hộ sinh
Thái Nhâm, Thái Ất trong mình cho hay.
Chớ vật vờ quen loài ong kiến
Hư vô bàn miệng tiếng nói không.

Ô hô thế sự tự bình bồng
Nam Bắc hà thời thiết lộ thông
Hồ ẩn sơn trung mao tận bạch
Kình ngư hải ngoại huyết lưu hồng.

Kê minh ngọc thụ thiên khuynh bắc
Ngưu xuất lam điền nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thượng
Tứ phương thiên hạ thái bình phong

Ngỡ may gặp hội mây rồng
Công danh rạng rỡ chép trong vân đài
Nước Nam thường có thánh tài
Sơn hà đặt vững ai hay tỏ tường?

So mấy lề để tàng kim quỹ
Kể sau này ngu bỉ được coi
Đôi phen đất lở, cát bồi
Đó đây ong kiến, dậy trời quỷ ma

Ba con đổi lấy một cha
Làm cho thiên hạ xót xa vì tiền
Mão Thìn Tí Ngọ bất yên
Đợi tam tứ ngũ lai niên cùng gần.

Hoành Sơn nhất đái
Vạn đại dung thân
Đến thời thiên hạ vô quân
Làm vua chẳng dễ, làm dân chẳng lành.

Gà kêu cho khỉ dậy nhanh
Phụ nguyên số đã rành rành cáo chung
Thiên sinh hữu nhất anh hùng
Cứu dân độ thế trừ hung diệt tà.

Thái Nguyên cận Bắc đường xa
Ai mà tìm thấy mới là thần minh
Uy nghi dung mạo khác hình
Thác cư một góc kim tinh non đoài

Cùng nhau khuya sớm chăn nuôi
Chờ cơ mới sẽ ra đời cứu dân
Binh thư mấy quyển kinh luân
Thiên văn địa lý, nhân dân phép màu

Xem ý trời ngõ hầu khải thánh
Dốc sinh ra điều đỉnh hộ mai
Song thiên nhật nguyệt sáng soI
Thánh nhân chẳng biết thì coi như tường

Thông minh kim cổ khác thường
Thuấn Nghiêu là trí, Cao Quang là tài
Đấng hiên ngang nào ai biết trước
Tài lược thao uyên bác vũ văn
Ai còn khoe trí khoe năng
Cấm kia bắt nọ hung hăng với người.

Chưa từng thấy nay đời sự lạ
Chốc lại mòng gá vạ cho dân
Muốn bình sao chẳng lấy nhân
Muốn yên sao lại bắt dân ghê mình?

Đã ngu dại Hoàn, Linh đời Hán
Lại đua nhau quần thán đồ lê
Chức này quyền nọ say mê
Làm cho thiên hạ khôn bề tựa nương
Kẻ thì phải thuở hung hoang
Kẻ thì bận của bổng toan, khốn mình

Cửu cửu càn khôn dĩ định
Thanh minh thời tiết hoa tàn
Trực đáo dương đầu mã vĩ
Hồ binh bát vạn nhập Tràng An

Nực cười những kẻ bàng quang
Cờ tam lại muốn toan đường chống xe
Lại còn áo mũ xun xoe
Còn ra xe ngựa màu mè khoe khoang.

Ghê thay thau lẫn với vàng
Vàng kia thử lửa càng cao giá vàng
Thánh ra tuyết tán mây tan
Bây giờ mới sáng rõ ràng nơi nơi.

Can qua, việc nước bời bời
Trên thuận ý trời, dưới đẹp lòng dân
Oai phong khấp quỷ kinh thần
Nhân nghĩa xa gần bách tính ngợi ca

Rừng xanh, núi đỏ bao la
Đông tàn, Tây bại sang gà mới yên
Sửu Dần thiên hạ đảo điên
Ngày nay thiên số vận niên rành rành.

Long vĩ xà đầu khởi chiến tranh
Can qua xứ xứ khổ đao binh
Mã đề dương cước anh hùng tận
Thân dậu niên lai kiến thái bình

Sự đời tính đã phân minh
Thanh nhàn mới kể chyện mình trước sau
Đầu thu gà gáy xôn xao
Mặt trăng xưa sáng tỏ vào Thăng Long.

Chó kêu ầm ỉ mùa đông
Cha con Nguyễn lại bế bồng nhau đi
Lợn kêu tình thế lâm nguy
Quỷ vương chết giữa đường đi trên giời

Chuột sa chỉnh gạo nằm chơi
Trâu cày ngốc lại chào đời bước ra
Hùm gầm khắp nẽo gần xa
Mèo kêu rợn tiếng, quỷ ma tơi bời.

Rồng bay năm vẻ sáng ngời
Rắn qua sửa soạn hết đời sa tăng
Ngựa hồng quỷ mới nhăn răng
Cha con dòng họ thầy tăng hết thời

Chín con rồng lộn khắp nơi
Nhện giăng lưới gạch dại thời mắc mưu
Lời truyền để lại bấy nhiêu
Phương đoài giặc đã đến chiều bại vong
Hậu sinh thuộc lấy làm lòng
Đến khi ngộ biến đường trong giữ mình

Đầu can Võ tướng ra binh
Ắt là trăm họ thái bình âu ca
Thần Kinh Thái Ất suy ra
Để dành con cháu đem ra nghiệm bàn

Ngày thường xem thấy quyển vàng
Của riêng bảo ngọc để tàng xem chơi
Bởi Thái Ất thấy lạ đời
Ấy thuở sấm trời vô giá thập phân

Kể từ đời Lạc Long Quân
Đắp đổi xoay vần đến lục thất gian
Mỗi đời có một tôi ngoan
Giúp chung nhà nước dân an thái bình

Phú quý hồng trần mộng
Bần cùng bạch phát sinh
Hoa thôn đa khuyển phệ
Mục giã giục nhân canh
Bắc hữu Kim thành tráng
Nam hữu Ngọc bích thành
Phân phân tùng bách khởi
Nhiễu nhiễu xuất đông chinh
Bảo giang thiên tử xuất
Bất chiến tự nhiên thành

Rồi ra mới biết thánh minh
Mừng đời được lúc hiển vinh reo hò
Nhị Hà một dải quanh co
Chính thực chốn ấy đế đô hoàng bào
Khắp hoà thiên hạ nao nao
Cá gặp mưa rào có thích cùng chăng?

Nói đến độ thầy tăng mở nước
Đám quỷ kia xuôi ngược đến đâu
Bấy lâu những cậy phép màu
Bây giờ phép ấy để lâu không hào

Cũng có kẻ non trèo biển lội
Lánh mình vào ở nội Ngô Tề
Có thầy Nhân Thập đi về
Tả hữu phù trì, cây cỏ thành binh

Những người phụ giúp thánh minh
Quân tiên xướng nghĩa chẳng tàn hại ai
Phùng thời nay hội thái lai
Can qua chiến trận để người thưởng công

Trẻ già được biết sự lòng
Ghi làm một bản để hòng giở xem
Đời này những thánh cùng tiên
Sinh những người hiền trị nước an dân

Này những lúc thánh nhân chưa lại
Chó còn nằm đầu khải cuối thu
Khuyên ai sớm biết khuông phù
Giúp cho thiên hạ Đường, Ngu ngỏ hầu.

Cơ tạo hoá phép mầu khôn tỏ,
Cuộc tàn rồi mới tỏ thấp cao.
Thấy sấm từ đây chép vào
Một mảy tơ hào chẳng dám sai ngoa.”

Trung Hoa có câu chuyện phong thủy.  Núi Cảnh Sơn. Jǐngshān, 景山, “Núi Cảnh”, địa chỉ tại 44 Jingshan W St, Xicheng, Beijing là linh địa đế đô. Cảnh Sơn là Núi Xanh, Green Mount, ngọn núi nhân tạo linh ứng đất trời, phong thủy tuyệt đẹp tọa lạc ở quận Tây Thành, chính bắc của Tử Cấm Thành Bắc Kinh, trục trung tâm của Bắc Kinh, thẳng hướng Cố Cung, Thiên An Môn. Trục khác nối Thiên Đàn (天坛; 天壇; Tiāntán, Abkai mukdehun) một quần thể các tòa nhà ở nội thành Đông Nam Bắc Kinh, tại quận Xuanwu. Trục khác nối Di Hòa Viên (颐和园/頤和園; Yíhé Yuán, cung điện mùa hè) – là “vườn nuôi dưỡng sự ôn hòa” một cung điện được xây dựng từ thời nhà Thanh, nằm cách Bắc Kinh 15 km về hướng Tây Bắc. Một hướng khác nối Hải Nam tại thành phố hải đảo Tam Sa, nơi có pho tượng Phật thuộc loại bề thế nhất châu Á. Tam Sa là thành phố có diện tích đất liền nhỏ nhất, tổng diện tích lớn nhất và có dân số ít nhất tại Trung Quốc.  Theo phân định của chính phủ Trung Quốc, Tam Sa bao gồm khoảng 260 đảo, đá, đá ngầm,  bãi cát trên biển Đông với tổng diện tích đất liền là 13 km². Địa giới thành phố trải dài 900 km theo chiều đông-tây, 1800 km theo chiều bắc-nam, diện tích vùng biển khoảng 2 triệu km². Đó là đường lưỡi bò huyền bí. Biển Đông, Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam nằm trên trục chính của sự thèm muốn này.

Ngày xuân đọc Trạng Trình. Lạ lùng thay hơn 500 trước Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm đã dự báo điều này và  sứ giả Thanh triều là Chu Xán khi nói đến nhân vật Lĩnh Nam cũng có câu “An Nam lý học hữu Trình Tuyền” (về môn lý học nước Nam có ông Trình Tuyền) rồi chép vào sách để truyền lại bên Tàu.

CỰ NGAO ĐỚI SƠN

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Bích tầm tiên sơn triệt đế thanh Cự ngao đới đắc ngọc hồ sinh Đáo đầu thạch hữu bổ thiên lực Trước cước trào vô quyển địa thanh Vạn lý Đông minh quy bá ác Ức niên Nam cực điện long bình Ngã kim dục triển phù nguy lực Vãn khước quan hà cựu đế thành Dịch nghĩa: CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI Nước biếc ngâm núi tiên trong tận đáy Con rùa lớn đội được bầu ngọc mà sinh ra Ngoi đầu lên, đá có sức vá trời Bấm chân xuống, sóng cuồn cuộn không dội tiếng vào đất Biển Đông vạn dặm đưa về nắm trong bàn tay Muôn năm cõi Nam đặt vững cảnh trị bình Ta nay muốn thi thổ sức phù nguy Lấy lại quan hà, thành xưa của Tổ tiên. Dịch thơ: CON RÙA LỚN ĐỘI NÚI Núi tiên biển biếc nước trong xanh Rùa lớn đội lên non nước thành Đầu ngẩng trời dư sức vá đá Dầm chân đất sóng vỗ an lành Biển Đông vạn dặm dang tay giữ Đất Việt muôn năm vững trị bình Chí những phù nguy xin gắng sức

Cõi bờ xưa cũ Tổ tiên mình.(Bản dịch thơ Nguyễn Khắc Mai)

THƠ VĂN NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Bốn tác phẩm tuyển chọn

DƯỠNG SINH THI
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tích khí, tồn tinh, cánh dưỡng thần
Thiểu tư, qủa dục, vật lao thân.
Thực thôi ban bảo, vô kiêm vị,
Tửu chỉ tam phân, mạc quá tần
Mỗi bả hý ngôn, đa thủ tiếu,
Thường hàm, lạc ý, mạc sinh xân
Nhiệt viêm, biến trá, đô hưu vấn
Nhiệm ngã tiêu dao qúa bách xuân

Dịch thơ

Giữ khí, gìn tinh, lại dưỡng thần
Ít lo, ít muốn, ít lao thân.
Cơm nên vừa bụng, đừng nhiều vị,
Rượu chỉ vài phân, chớ qúa từng.
Miệng cứ câu đùa, vui miệng mãi,
Bụng thường nghĩ tốt, bụng lâng lâng.
Bốc đồng, biến trá, thôi đừng hỏi,
Để tớ tiêu dao đến tuổi trăm.

(Bản dịch của GS. Lê Trí Viễn)

NHÀN (Thơ Nôm, bài 73)
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Một mai, một cuốc, một cần câu,
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào.
Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn, người đến chốn lao xao.
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá,
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Rượu đến cội cây, ta sẽ nhắp
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao.

CHÍN MƯƠI (Thơ Nôm, bài 29)
Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tóc đã thưa, răng đã mòn,
Việc nhà đã phó mặc dâu con.
Bàn cờ, cuộc rươu, vầy hoa cúc
Bó củi, cần câu, trốn nước non.
Nhàn được thú vui hay nấn ná,
Bữa nhiều muối bể chứa tươi ngon
Chín mươi thì kể xuân đà muộn
Xuân ấy qua thì xuân khác còn.

NGUYỄN BỈNH KHIÊM: MẶT TRỜI MỌC Ở PHƯƠNG ĐÔNG

Vẹn toàn điều Thiện là Trung, không vẹn toàn điều Thiện thì không phải là Trung. Tân là cái bến, biết chỗ dừng lại là bến chính, không biết chỗ dừng lại là bến mê… Nghĩa chữ Trung chính là ở chỗ Chí Thiện. (Trung Tân quán bi ký, 1543)

Làm việc thiện không phải vì công tích mà ở tấm lòng. Nay vừa sau cơn loạn lạc thì chẳng những thân người ta bị chìm đắm, mà tâm người ta càng thêm chìm đắm. Các bậc sĩ đệ nên khuyến khích nhau bằng điều thiện, để làm cho mọi người dấy nên lòng thiện mà tạo nên miền đất tốt lành. (Diên Thọ kiều bi ký, 1568).

Hoành Sơn nhất đái, khả dĩ dung thân
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của Đoan Quận công Nguyễn Hoàng)

Cao Bằng tuy thiểu, khả diên sổ thế
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói với sứ giả của vua Mạc)

Lê tồn Trịnh tại, Lê bại Trịnh vong
(Nguyễn Bỉnh Khiêm nói về mối quan hệ giữa vua Lê và chúa Trịnh)

Tứ bách niên tiền, chung phục thuỷ / Thập tam thế hậu, dị nhi đồng
(Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về con cháu họ Mạc)

Hồng Lam ngũ bách niên thiên hạ / Hưng tộ diên trường ức vạn xuân
(Nguyễn Bỉnh Khiêm viết về thời vận mới của nước Việt)

Cổ lai quốc dĩ dân vi bản / Đắc quốc ưng tri tại đắc dân
(Thơ chữ Hán, Cảm hứng)

Cổ lai nhân giả tư vô địch / Hà tất khu khu sự chiến tranh
(Thơ chữ Hán)

Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ / Tri ngô hậu lạc tại tiên ưu
(Thơ chữ Hán, Ngụ hứng)

Có thuở được thời mèo đuổi chuột / Đến khi thất thế kiến tha bò
(Thơ Nôm, Bài 75)

Thớt có tanh tao ruồi đậu đến / Ang không mật mỡ kiến bò chi
(Thơ Nôm, Bài 53)

Hoa càng khoe nở, hoa nên rữa / Nước chứa cho đầy, nước ắt vơi
(Thơ Nôm, Bài 52)

Thế gian biến cải vũng nên đồi / Mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi
(Thơ Nôm, Bài 77)

Làm người hay một chớ hay hai / Chớ cậy rằng hơn, chớ cậy tài
(Thơ Nôm, Bài 65)

Làm người chớ thấy tài mà cậy / Có nhọn bao nhiêu lại có tù
(Thơ Nôm, Bài 11)

Làm người có dại mới nên khôn / Chớ dại ngây si, chớ quá khôn
(Thơ Nôm, Bài 94)

Chớ cậy rằng khôn khinh rẻ dại / Gặp thời, dại cũng hoá ra khôn
(Thơ Nôm, Bài 94)

Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng/ Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen
(Thơ Nôm, Bài 5)

Đạo ở mình ta lấy đạo trung / Chớ cho đục, chớ cho trong
(Thơ Nôm, Bài 104)

571
NỢ DUYÊN
Hoàng Kim

Thơ tình trầm tích thời gian
Nợ duyên thắm thiết muộn màng ba sinh
Nhớ Người tăm cá bóng chim
#Thungdung đồng rộng kiếm tìm non cao.

Nợ ai mưa nắng dãi dầu
Em tôi rụng tóc sói đầu nhớ thương.
Nợ em nửa sợi tơ vương
Anh mang vàng đá trãi đường nhân duyên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/thungdung

AN VUI CỤ TRẠNG TRÌNH
Hoàng Kim
570
Khi mắt đang quáng gà,
tránh đừng ra sân khấu.
Hư danh vinh liền nhục,
Chí thiện mới lâu bền.

An nhàn vô sự là tiên
An vui cụ Trạng Trình

*

#Thungdung chơi cùng cụ Trang
Ban mai măng mọc tuyệt vời
Gia Cát Mã Tiền Khóa
Ngày mới Ngọc cho đời

#Thungdung Ngày mới Ngọc cho đời https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ngay-moi-ngoc-cho-doi/

https://hoangkimlong.wordpress.com/category/an-vui-cu-trang-trinh/
(* Kính họa bài viết hay của giáo sư Thâm Giang Trần Gia Ninh “Phúc thống phục nhân sâm … tắc tử” (đau bụng uống nhân sâm… thì chết” và nhắn bạn Phạm Huy Việt nhân đọc bài Người kéo cầu dao lịch sử Mikhaiin Gorbachep đã chết). Thật tâm đắc và ngưỡng mộ bài học lịch sử vô giá Cuộc họp chính phủ đặc biệt sau ngày quốc khánh

HUẾ KINH THÀNH NHÀ NGUYỄN .
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim

Huế kinh thành nhà Nguyễn là cụm Quần thể di tích Cố đô Huế được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới, là một tòa thành ở cố đô Huế, nơi đóng đô của triều đại nhà Nguyễn trong suốt 143 năm từ 1802 đến khi thoái vị vào năm 1945. Huế kinh thành nhà Nguyễn là một trong số các di tích lịch sử văn hóa Việt Nam được vua Gia Long tiến hành khảo sát từ năm 1803, khởi công xây dựng từ 1805 và hoàn chỉnh vào năm 1832 dưới triều vua Minh Mạng. Hiện nay, Huế kinh thành nhà Nguyễn có vị trí trong bản đồ Huế như sau: phía nam giáp đường Trần Hưng Đạo và, Lê Duẩn; phía tây giáp đường Lê Duẩn; phía bắc giáp đường Tăng Bạt Hổ; phía đông giáp đường Phan Đăng Lưu. Bên trong kinh thành, được giới hạn theo bản đồ thuộc các đường như sau: phía nam là đường Ông Ích Khiêm; phía tây là đường Tôn Thất Thiệp; phía bắc là đường Lương Ngọc Quyến và phía đông là đường Xuân 68.

Di sản thế giới tại Việt Nam 1 Hoàng Thành Thăng Long, ảnh Hoàng Thành Thăng Long xưa và nay  nguồn BQLDT Hà Nội, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

DI SẢN THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
Học tiếng Trung Việt, thu thập tổng hợp biên soạn

Di sản thế giớilà danh hiệu cao quý và lâu đời nhất trong các danh hiệu của UNESCO. Di sản thế giới gồm ba loại hình di sản văn hóa thế giới, di sản thiên nhiên thế giới và di sản hỗn hợp văn hóa và thiên nhiên thế giới. Việt Nam hiện có 8 di sản được UNESCO công nhận di sản thế giới gồm 5 di sản văn hóa thế giới là Hoàng Thành Thăng Long,  cố đô Huế, Vịnh Hạ Long, Vườn Quốc gia Phong Nha Kẻ Bàng, Quần thể danh thắng Tràng An, Thánh địa Mỹ Sơn, phố cổ Hội An, Thành Nhà Hồ. Ngoài 8 di sản thế giới ở Việt Nam được UNESCO công nhận còn có 1 di sản thế giới Cao nguyên đá Đồng Văn công viên địa chất toàn cầu thuộc Vườn Quốc Gia ở Việt Nam với 11 di sản văn hóa thế giới phi vật thể và 6 di sản tư liệu. Tổng cộng có 26 di sản thế giới tại Việt Nam.

Hoàng Thành Thăng Long di sản thế giới tại Việt Nam di tích Đoan Môn.  Ngày 10 tháng 12 năm 1427 nhằm ngày 22 tháng 11 năm Đinh Mùi tại Đoan Môn Hoàng Thành Thăng Long thủ đô Hà Nội ngày nay, Hội thề Đông Quan được tổ chức giữa thủ lĩnh nghĩa quân Lam Sơn Lê Lợi và chủ tướng quân Minh là Vương Thông,  Đại Việt giành lại độc lập hoàn thành cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Vua Minh sai La Nhữ Kính mang thư sang phong Trần Cảo làm An Nam Quốc Vương, bãi bỏ quân nam chinh, ra lệnh cho Vương Thông trở về Bắc, trả lại đất cho An Nam, cho sứ thần đi lại, việc triều cống thực hiện theo lệ cũ năm Hồng Vũ.  Quân Minh tổng cộng 10 vạn người đã được hồi hương an toàn. Bình Ngô đại cáo do Nguyễn Trãi viết theo ý chỉ của Lê Lợi đã khẳng định: Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần Vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay
  1. HOÀNG THÀNH THĂNG LONG

Hoàng thành Thăng Long Hà Nội khu di tích Trung tâm được Ủy ban di sản thế giới (thuộc UNESCO) chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 31-07-2010 tại Hội nghị lần thứ 34, tổ chức tại thủ đô Brasilia của Braxin. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long- Hà Nội nằm trong khu vực thuộc quận Ba Đình – Hà Nội với tổng diện tích là 18,395 ha. Trong đó bao gồm khu khảo cổ học được khai quật (ở số 18 đường Hoàng Diệu) và các di tích còn lưu giữ được trong khu di tích Thành cổ Hà Nội như: cột cờ Hà Nội, Đoan Môn, Điện Kính thiên, Hậu Lâu, Bắc Môn cùng phần tường bao và 8 cổng hành cung được xây dựng thời Nguyễn. Khu di tích Trung tâm Hoàng thành Thăng Long – Hà Nội được hình thành từ thời nhà Lý, từ sau những năm 1011 cùng với kinh thành Thăng Long. Kinh thành Thăng long được xây dựng theo mô hình “Tam Trùng Thành Quách”, bao gồm có 3 vòng thành: La thành hay còn gọi là Kinh thành bao quanh kinh đô men theo 3 con sông: sông Hồng, Tô Lịch và sông Kim Ngưu. Tiếp đến là Hoàng thành (vòng thành thứ 2) và trong cùng là Tử Cấm thành (vòng thành thứ 3). Trải qua hơn 10 thế kỷ với nhiều triều đại phong kiến cũng như bao biến cố thăng trầm trong lịch sử Việt Nam, Hoàng thành Thăng Long đã có nhiều sự thay đổi, song riêng khu vực Tử Cấm thành hầu như không thay đổi, chỉ có các kiến trúc bên trong là có sự tu sửa, xây dựng thêm. Vì vậy các di tích ở đây đã có mối liên hệ liên kết khá chặt chẽ tạo nên một tổng thể liên hoàn rất phức tạp nhưng rất phong phú và có sức hấp dẫn đặc biệt trong việc nghiên cứu về vấn đề quy hoạch đô thị và không gian kiến trúc tiếp nối giữa các triều đại trong lịch sử Việt Nam. Đây cũng chính là giá trị độc đáo nhất của khu di tích.

Di sản thế giới tại Việt Nam 2 Cố đô Huế, ảnh tư liệu nguồn BQLDT Cố đô Huế, (trích dẫn bởi Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim 2018)

2. CỐ ĐÔ HUẾ

Quần thể di tích cố đô Huế được  tổ chức UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới ngày 03/7/1993 tại hội nghị tổ chức ở Colombia. Đây là di sản văn hóa đầu tiên của Việt Nam được vinh danh là Di sản văn hóa thế giới. Quần thể di tích cố đô Huế được phân bố dọc theo tả ngạn và hữu ngạn sông Hương, thuộc thành phố Huế và một vài vùng ngoại ô thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Nơi đây là kinh đô của Việt Nam thời  Phong kiến – Triều đại nhà Nguyễn từ năm 1802 đến 1945.  Trải qua 143 năm dưới sự trị vì của 13 đời vua, kinh đô Huế đã hình thành một hệ thống kiến trúc biểu thị cho quyền uy của chế độ quân chủ trung ương tập quyền Nhà Nguyễn ở Việt Nam thời bấy giờ. Đó là một hệ thống thành quách mẫu mực, những công trình kiến trúc, lịch sử văn hóa vừa mang đậm dấu ấn của nghệ thuật kiến trúc phương Đông vừa có sự giao thoa với nghệ thuật kiến trúc phương Tây. Tất cả được sắp đặt ở những vị thế đặc biệt lồng trong khung cảnh thiên nhiên thơ mộng toát  lên một vẻ đẹp cổ kính, uy nghiêm nhưng vẫn rất trữ tình. Một vẻ  đẹp độc đáo của kinh đô “rất Việt Nam” với những công trình tiêu biểu như: Hoàng Thành, Tử Cấm Thành, Nghinh Lương Đình, Phu Văn Lâu, Kỳ Đài, Ngọ Môn và các ngôi điện Thái Hòa, Cần Chánh, Kiến Trung,..Ngoài ra còn có 7 cụm lăng tẩm của 9 vị vua, Đàn Nam Giao, Hổ quyền, cùng nhiều kiến trúc đình, điện, chùa phật giáo cổ kính và nhiều địa danh thiên nhiên kỳ thú, thơ mộng như chùa Thiên Mụ, điện Hòn Chén, Lăng Cô, núi Ngự, sông Hương,…đã góp phần tô điểm thêm vẻ đẹp rất đặc trưng của cố đô Huế; xem tiếp Di sản thế giới tại Việt Nam và…

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
https://hoangkimlong.wordpress.com/category/tinh-thuc-cung-thang-nam/https://hoangkimvn.wordpress.com/tag/tinh-thuc-cung-thang-nam/

CNM365 Tình yêu cuộc sống https://hoangkimlong.wordpress.com; #tinhyeucuocsong  #hoangkimlong,  #hoanggia#Thungdung#dayvahoc#cltvn#vietnamhocBan mai chào ngày mới; Tỉnh thức cùng tháng năm; Ai bảo chăn trâu là khổ? A Na tìm được Ngọc; Hoàng Tố Nguyên tiếng TrungHoàng Long cây lương thực;  Hoàng Kim chuyện đời tôiChọn giống sắn Việt Nam; Thầy nghề nông chiến sĩ;  Kim Notes lắng ghi chú; Thầy bạn là lộc xuân;  Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Sóc Trăng Lương Định CủaThầy Quyền thâm canh lúaThầy Vũ trong lòng tôi; Thầy Luật lúa OMCS OM;  TTC Group Sen vào hè;  ĐHNN2 Hà Bắc nay và xưa; Lớp 10A TT ĐHNN2 Hà Bắc;  Lên Trúc Lâm Yên TửĐêm Yên Tử;  Sự chậm rãi minh triết; Chuyện ngậm ngãi tìm trầm; Họ im lặng như núiVăn chương ngọc cho đời; Chính Ngọ đoán Kinh Dịch; #cnm365 #cltvn An nhiên; Một gia đình yêu thương; Kim Notes lắng ghi chú; Chung sức trên đường xuân https://youtu.be/1U_zSJ0VTes; Xuân sớm Ngọc Phương Nam; Nguyễn Trãi kiệt tác thơ văn; An vui cụ Trạng Trình

An nhiên; Một gia đình yêu thương; Di sản thế giới tại Việt Nam; Đỗ Tất Lợi danh y Việt; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Tím một trời yêu thương; Suy ngẫm từ núi Xanh; Châu Mỹ chuyện không quên; Mark Twain nhà văn Mỹ; IAS đường tới trăm năm; Hoa Đất thương lời hiền; Ngày 3 tháng 2 năm 1930,  Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập tại Cửu Long, Hương Cảng thuộc Anh. Ngày 3 tháng 2 năm 1820, ngày mất Gia Long, quân chủ triều Nguyễn (sinh năm 1762), là Hoàng đế đã thành lập nhà Nguyễn, vương triều phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm  2008, ngày mất  Đỗ Tất Lợi, nhà nghiên cứu dược học nổi tiếng, “cây đại thụ” của nền y học cổ truyền Việt Nam (sinh năm 1919); Bài chọn lọc ngày 3 tháng 2: #vietnamhoc #cnm365 Tết Nguyên Đán; #cnm365 #cltvn An nhiên; Một gia đình yêu thương; Di sản thế giới tại Việt Nam; Đỗ Tất Lợi danh y Việt; Giếng Ngọc vườn Tao Đàn; Tảo mai nhớ đức Nhân Tông; Tím một trời yêu thương; Suy ngẫm từ núi Xanh; Châu Mỹ chuyện không quên; Mark Twain nhà văn Mỹ; IAS đường tới trăm năm; Hoa Đất thương lời hiền; Thông tin tại https://hoangkimvn.wordpress.com/http://fa.hcmuaf.edu.vn/hoangkimlonghttps://cnm365.wordpress.com/category/chao-ngay-moi-3-thang-2/

Lê Hùng Lân Hoa Tiên


Lê Hùng Lân Hoa Tiên

Gạo ngon Việt Nam Nàng Tiên, Nàng Hoa 9, Nàng Châu với kỹ sư Lê Hùng Lân và những người bạn là chùm ảnh câu chuyện hạt ngọc Việt. Tôi lưu lại kỷ niệm này để biết ơn thầm lặng chân thành của chính lòng mình với những người lao động chân mộc chọn giống tốt cho bữa cơm ngon. Người nhà quê coi trọng bữa cơm ngon là phần thưởng quý giá nhất và tiết kiệm nhất cho đời sống mỗi ngày.

Tôi nhớ Lời Thầy dặn Thung dung. Thầy Norman Borlaug đã ân cần dặn tôi: ‘Nhớ coi trọng ba bữa cơm. Đó là năng lượng sống” Lời Thầy dặn thật thấm thía: “ Đời người tối thiểu phải ăn, kế đến là học tập, công việc, nhà ở, quần áo và chăm sóc sức khỏe. Quanh ta còn nhiều mảnh đời bất hạnh. Hiểm họa nghèo đói vẫn bùng phát bất cứ lúc nào. Hãy luôn nhớ điều đó”; “Hãy vươn tới những vì sao. Cho dù không chạm được vào nó, nhưng nếu cố gắng hết sức, ít ra, chúng ta cũng chạm được những hạt bụi của ngôi sao”; “Việc chính đời người chỉ ít thôi. Chuyên tâm đừng bận chuyện trời ơi. Phúc hậu suốt đời làm việc thiện. Di sản muôn năm mãi sáng ngời”.

Những thầy bạn của tôi. Cách sống gần gũi thiên nhiên ấy. Với tôi, đó là những người bạn học quý. Lân & Hoa vừa mới đi miền đất hứa. Huỳnh Hồng lớp trưởng nói với tôi ‘Ai cũng có một số phận riêng tư cả. Cái chính là tụi mình sống chân thành và quý nhau”. Tôi nói vui “Ai đi rồi cũng về nhà thôi”.

Nhà tôi ở xa , sống hiền lành ở nhà quê, điều kiện cũng chừng mực, ngay cả anh chị em ruột thịt thân thiết cũng chỉ lâu lâu mới gặp. Chuyện các bạn hàn huyên mình vui hóng gió thân chúc mọi điều tốt lành.

Chép lại chùm ảnh yêu thích, thay lời muốn nói.

Lớp TT2 ĐHNL Tp HCM
Thời Chuyển Mùa Nhớ Bạn

Thời chuyển mùa nhớ bạn
Thấm thía điều phước duyên
Ban mai chào ngày mới
Tỉnh thức cùng tháng năm

Lời thương ngày hội ngộ
Tình thân bên người hiền
Bạn quý mừng gặp mặt
Chuyện đời không thể quên.

tích hợp tại https://khatkhaoxanh.wordpress.com/category/diem-hen-chon-dong-tam/ & https://hoangkimlong.wordpress.com/category/ttc-group-sen-vao-he/

Núi Đá Bia Phú Yên


Núi Đá Bia Thiên Nhãn Phương Nam

ĐẠI LÃNH NHẠN QUAY VỀ

Núi Đá Bia Thiên Nhãn Phương Nam
Biển Vũng Rô Mắt Thần Tịnh Hải 
Tháp Nhạn Người Chăm Lưu Đất Phú
Mằng Lăng Chữ Việt Dấu Trời Yên
Xuân Đài Kỳ Lộ Ghềnh Đá Đĩa
Tuy Hòa Sông Ba Đèo Cù Mông
Vạn Kiếp Thành Hoàng Lương Ở Lại
Ngàn Năm Đại Lãnh Nhạn Quay Về

Biển Vũng Rô Mắt Thần Tịnh Hải

Tháp Nhạn Người Chăm Lưu Đất Phú

Mằng Lăng Chữ Việt Dấu Trời Yên

Xuân Đài Kỳ Lộ Ghềnh Đá Đĩa
Tuy Hòa Sông Ba Đèo Cù Mông

Vạn Kiếp Thành Hoàng Lương Ở Lại
Ngàn Năm Đại Lãnh Nhạn Quay Về

SỚM MAI QUA ĐẠI LÃNH

Vui được dịp sớm mai qua Đại Lãnh
Ngắm đất trời núi biển lúc hừng đông
Nghe vó ngựa ruổi dài đường vạn dặm
Đá Bia ơi thăm thẳm đất Tiên Rồng

Phú Yên Nôi Lúa Sắn
Hoàng Thành Ngọc Cho Đời
Bảo Tồn Và Phát Triển #vietnamhoc
#Vietcassava Sắn Việt Nam ngày nay


CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
ngày mới nhất bấm vào đây cập nhật mỗi ngày

GIỐNG SÁN TỐT PHÚ YÊN
Các giống sắn mới triển vọng KM568, KM539, KM537, KM569 kết quả chọn tạo khảo nghiệm tại tỉnh Phú Yên https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san

Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững, câu chuyện hôi thảo sắn 2021 và một số thông tin mới cập nhật

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Tham luận trình bày tại Hội nghị Phú Yên 28 12 2021 “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản” và tại Hội nghị Phú Yên 31 12 2021 UBND tỉnh Phú Yên “Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025

Tỉnh Phú Yên xác định lúa mía sắn là ba cây trồng chủ lực, lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững, tầm nhìn đến năm 2030, là trọng điểm chuỗi giá trị về nông sản và nền tảng của an sinh, kinh tế, xã hội địa phương . Nhân dân Phú Yên và hệ thống chính trị xã hội đều năng động, hiệu quả, giỏi nghiên cứu ứng dụng phát triển. Thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ 2016-2020 Phú Yên đã đạt được là khảo nghiệm, tuyển chọn và phát triển được giống sắn chủ lực KM419, giống sắn phổ biến KM440, mô hình canh tác sắn thích hợp bền vững, đồng hành với việc chọn tạo và phát triển giống lúa siêu xanh GSR65, giống lúa siêu xanh GSR90 phẩm chất ngon, năng suất cao, thích ứng biến đổi khí hậu. Định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025, tỉnh Phú Yên đã lựa chọn giải pháp bảo tồn và phát triển sắn thích hợp bền vững. Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/bao-ton-va-phat-trien-san

Sắn Việt Nam là câu chuyện nhiều năm còn kể. Gia đình sắn Việt Nam là một kinh nghiệm quý về sự liên kết chặt chẽ giữa các ‘bạn nhà nông’ chuyên gia nông học, thầy giáo cán bộ nghiên cứu sinh viên, các chuyên gia quốc tế cùng làm việc chặt chẽ với nông dân xây dựng mô hình điểm trình diễn, đó là chìa khóa cho sự bảo tồn và phát triển. “Chuyện ngậm ngãi tìm trầm” “Sắn Việt đất ông Hoàng” là hai ghi chú nhỏ trong số đó.

Giống sắn KM568 là con lai của KM440 x (KM419 x KM539)

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km568-than-la-anh-rat-dep.jpg


Giống sắn KM568 quả và hạt lai tại vườn tạo giống sắn Đồng Xuân Phú Yên (3a). Đoàn đánh giá đồng ruộng có ông Nguyễn Đình Phú, giám đốc Sở Khoa học Công nghệ Phú Yên (3b). Giống sắn KM568 kháng bệnh khảm lá virus CMD cấp 1,5, kháng bệnh chồi rồng CWBD cấp 1(3c). Hình ảnh đồng ruộng trong sự so sánh với giống sắn KM419 kháng bệnh CMD cấp 3,0 và giống sắn  KM539 kháng bệnh CMD cấp 1,0 (3d).

GIỐNG SẮN KM94 Ở PHÚ YÊN 2023 (ảnh khảo sát đồng ruộng 27 8 2023)

Chọn tạo khảo nghiệm và nhân giống là một chuỗi công việc cẩn trọng công phu và nhiều vấn nạn ngày nay. Khảo nghiệm DUS và VCU là một nội dung rất quan trọng, trước khi nhân giống, khảo nghiệm sản xuất, xây dựng mô hình và quy trình canh tác thích hợp cho giống sắn mới. Nội dung khảo nghiêm DUS và VCU giống sắn được thực hiện theo đúng Thông tư Quy định về khảo nghiệm, công nhận giống cây trồng nông nghiệp mới của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thi hành Luật Trồng trọt (Quốc Hội 31/2018, hiệu lực thi hành 1.1.2020), để tránh nhân giống sớm những giống sắn chưa được kiểm định nghiêm ngặt và chưa đủ thông tin tự công bố giống, tránh gây thiệt hại cho sự đầu tư của nông dân, doanh nghiệp và chuỗi giá trị sản xuất chế biến kinh doanh sắn.

Fwd: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars

Từ: hoangkim vietnam <hoangkim.vietnam@gmail.com>
Ngày: 20 thg 9, 2023 lúc 04:19
Chủ đề: Re: FOOD CROPS: Current situation of cassava in Vietnam and the breeding of improved cultivars
Tới: CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com>
CC: <hoangkim@hcmuaf.edu.vn>, <hoangkim_vietnam@yahoo.com>Inbox

Dear Clair Hershey .This is interesting. Thank you very much for your information. We will sending to you soon. Best wish regard. Your sincerely. Hoang Kim 

Vào Thứ 4, 20 thg 9, 2023 lúc 00:33 CLAIR HERSHEY <clair.hershey@gmail.com> đã viết:

Dear Hoang Kim,

It has been quite a long time since we have been in contact. I hope you are doing very well. I see your occasional posts on Facebook and elsewhere, and continued work on cassava.

I retired from CIAT in 2016, but continue to collaborate with them on some projects. Currently I am writing a history of the CIAT cassava genebank since its first establishment in 1969. 

One of the topics included in the report is the cassava core collection. I am trying to gather information about all the evaluations done on the core collection.

In my searches, I came across the paper you and colleagues wrote, and re-published as a blog spot in 2010, which I have attached here. 

I note that in the paragraph just before Table 8, you refer to evaluating cassava varieties for ethanol production from the CIAT core collection that is held in Vietnam. It seems that the current CIAT staff in Asia does not have information about this. Can you please possibly provide me with a few details? Did you introduce the core collection from CIAT Colombia or from Thailand? Is the evaluation data available in any publication? 

Thank you very much in advance for any information about this. I will appreciate it very much.

With very best wishes,

http://foodcrops.blogspot.com/2010/05/current-situation-of-cassava-in-vietnam.html

see more: https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/ and https://cnm365-wordpress,com/category/cnm365-cltvn-20-thang-9

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là su-that-tot-hon-ngan-loi-noi.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 419

Giống sắn KM 419 được chọn tạo từ tổ hợp lai BKA900 x KM 98-5. Giống do Trường Đại học Nông Lâm Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Phú Yên, Trường Đại học Nông Lâm Huế tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Trần Ngọc Ngoạn, Nguyễn Thị Trúc Mai, Võ Văn Quang, Nguyễn Bạch Mai, Nguyễn Thị Lệ Dung, Nguyễn Phương, Hoàng Long, Nguyễn Minh Cường, Đào Trọng Tuấn, Trần Công Khanh, Nguyễn Minh Hiếu, Nguyễn Văn Bộ, Nguyễn Thị Cách, Nguyễn Trọng Hiển, Lê Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. (2016), Giống sắn KM419 đượcBộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn công nhận sản xuất thử tại Quyết định số 85 / QĐ-BNN-TT Hà Nội ngày 13 tháng 1 năm 2016 cho vùng sinh thái Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ).

Giống sắn KM419 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2016 chiếm 38 % so với giống sắn KM94 chiếm 31,7% (RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree), và từ năm 2019 giống sắn KM419 chiếm trên 42% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam.

Giống KM419 có đặc điểm:

+ Thân xanh xám thẳng, ngọn xanh cọng đỏ, lá xanh đậm, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 34,9-54,9 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,8 – 30,7%.
+ Năng suất tinh bột: 10,1-15,8 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 62 %.
+ Thời gian thu hoạch: 7-10 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng và bệnh khảm lá virus CMD
+ Cây cao vừa, nhặt mắt, tán gọn, thích hợp trồng mật độ dày 12,500- 14.000 gốc/ ha .

Giống sắn KM419 đã phát triển rộng rãi tại Tây Ninh, Đồng Nai, Đắk Lắk, Phú Yên,…được nông dân các địa phương ưa chuộng với tên gọi sắn giống cao sản siêu bột Nông Lâm. Đặc biệt tại tỉnh Phú Yên giống sắn KM419 được trồng trên 85% tổng diện tích sắn của toàn tỉnh mang lại bội thu năng suất và hiệu quả cao về kinh tế xã hội. Tại Tây Ninh, năm 2019 diện tích sắn bị nhiễm bệnh CMD tuy vẫn còn cao nhưng mức độ hại giảm mạnh, lý do vì KM419 và KM94 là giống chủ lực chiếm trên 76% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh (KM419 chiếm 45% ở vụ Đông Xuân và 54,2% ở vụ Hè Thu; KM94 chiếm 31% ở vụ Đông Xuân và 21,6% ở vụ Hè Thu). Tại Đăk Lắk, từ năm 2019 diện tích sắn KM419 chiếm trên 70% diện tích mỗi vụ của toàn tỉnh.

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là 72c6f-km4402b01.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 440

Đặc điểm giống: KM440 thân xanh, thẳng, nhặt mắt, không phân cành, lá già xanh đậm, đọt non màu xanh tím, củ đồng đều, dạng củ đẹp, thịt củ màu trắng, ít nhiễm sâu bệnh, năng suất củ tươi 40,5 đến 53,1 tấn/ha. Hàm lượng bột đạt từ 27,0 -28,9%,. giống ngắn ngày, thời gian giữ bột sớm hơn KM94. 

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km440-04.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 440

Giống sắn KM539 được phát triển từ giống sắn gốc C39 nhập nội từ CIAT năm 2004, đã được bồi dục nâng cấp qua nhiều chu kỳ, bằng kỹ thuật và công nghệ tạo dòng sắn lai đơn bội kép (Doubled Haploid DH) chuẩn CIAT & VNCP (Hoang & ctv., 2010; Hoang & ctv., 2014).

PHÚ YÊN BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN SẮN BỀN VỮNG
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Tham luận trình bày tại Hội nghị Phú Yên 28 12 2021 “Giới thiệu về các công nghệ trong sản xuất Nông Lâm Thủy sản” và tại Hội nghị Phú Yên 31 12 2021 UBND tỉnh Phú Yên “Tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025

Tỉnh Phú Yên xác định lúa mía sắn là ba cây trồng chủ lực, lợi thế đầu tư tái cơ cấu theo hướng gia tăng giá trị, sản xuất tập trung, quy mô lớn và bền vững, tầm nhìn đến năm 2030, là trọng điểm chuỗi giá trị về nông sản và nền tảng của an sinh, kinh tế, xã hội địa phương . Nhân dân Phú Yên và hệ thống chính trị xã hội đều năng động, hiệu quả, giỏi nghiên cứu ứng dụng phát triển. Thành tựu hoạt động khoa học và công nghệ 2016-2020 Phú Yên đã đạt được là khảo nghiệm, tuyển chọn và phát triển được giống sắn chủ lực KM419, giống sắn phổ biến KM440, mô hình canh tác sắn thích hợp bền vững, đồng hành với việc chọn tạo và phát triển giống lúa siêu xanh GSR65, giống lúa siêu xanh GSR90 phẩm chất ngon, năng suất cao, thích ứng biến đổi khí hậu. Định hướng phát triển ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025, tỉnh Phú Yên đã lựa chọn giải pháp bảo tồn và phát triển sắn thích hợp bền vững. Đề tài “Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên.

xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/catrgory/bao-ton-va-phat-trien-san


Đề tài Nghiên cứu chọn tạo giống sắn năng suất tinh bột cao, kháng được sâu bệnh hại chính, phù hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên” là cấp bách và quan trọng. Mục tiêu: Chọn tạo được giống sắn có năng suất tinh bột vượt hơn đối chứng KM419 và KM94 tối thiểu 10%, kháng được sâu bệnh hại chính, đạt điểm bệnh cấp 1-2 đối bvo71i bệnh khảm lá virus CMD và bệnh chồi rồng, thích hợp với điều kiện sản xuất tại tỉnh Phú Yên; Nội dung : 1) Những vấn đề cần chú ý trong sản xuất sắn hiện nay để nâng cao giá trị và sức cạnh tranh cây sắn; 2) Thành tựu và bài học sắn Việt Nam (2016-2021) trước và trong dịch bệnh sắn CMD và CWBD ; 3) Phú Yên bảo tồn và phát triển sắn bền vững; Tiến bộ giống sắn Việt Nam 1975-2021 là nền tảng khoa học và thực tiễn để lựa chọn, xác định các tổ hợp lai, bảo tồn và phát triển giống sắn tốt kháng bệnh; Giống sắn KM568 và KM569 là thành quả bước đầu của nâng cấp cải tiến giống sắn chủ lực sản xuất KM419 và KM440 năng suất tinh bột cao nhất hiện nay bằng cách lai hữu tính với giống sắn KM539 kháng bệnh CMD, tích hợp gen quý này vào giống sắn tốt Việt Nam theo chuẩn kỹ thuật và công nghệ tạo dòng sắn lai;

CÁC GIỐNG SẮN TỐT PHỔ BIẾN Ở VIỆT NAM

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 94

Nguồn gốc Giống sắn KM94 hoặc KU50 (hoặc Kasetsart 50) được nhập nội từ CIAT/Thái Lan trong bộ giống khảo nghiệm Liên Á năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên nhập nội, tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995, Trịnh Phương Loan, Trần Ngọc Ngoạn và ctv. 1995). Giống được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống quốc gia năm 1995 trên toàn quốc tại Quyết định số 97/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995. Giống sắn KM94 là giống sắn chủ lực của Việt Nam có diện tích thu hoạch năm 2008 chiếm 75, 54% (Hoang Kim Nguyen Van Bo et al. 2010), năm 2016 chiếm 31,7 % và năm 2019 chiếm khoảng 37% tổng diện tích sắn toàn Việt Nam

Đặc điểm giống: Giống KM94 có đặc điểm

+ Thân xanh xám, ngọn tím, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,1- 39.0%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,7%.
+ Năng suất tinh bột: 7,6-9,5 tấn/ ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 %.
+ Thời gian thu hoạch: 9-11 tháng.
+ Nhiễm trung bình bệnh chồi rồng, bệnh khảm lá sắn CMD và bệnh cháy lá
+ Cây cao, cong ở phần gốc, thích hợp trồng mật độ 10.000-11 000 gốc/ ha .

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 140

Nguồn gốc::Giống sắn KM140 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x KM 36 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2007, 2009). Giống KM140 được Bộ Nông nghiệp & PTNT, cho phép sản xuất thử trên toàn quốc (Quyết định số 3468/ QĐ- BNN- TT, ngày 05/ 11/ 2007) và công nhận chính thức tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 và cho phép sản xuất hàng hoá trên toàn Quốc theo Thông tư số 65. 65/2010/TT-BNNPTNT, ngày 05 tháng 11 năm 2010 của Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. 0714-10-10-00.và đoạt giải Nhất Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTECH năm 2010. Giống KM140 được trồng nhiều tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 30.000 ha, năm 2010 trồng trên 150.000 ha; hiện là giống phổ biến.

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km140-02.jpg

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, thẳng, ngọn xanh, cây cao vừa phải, không phân nhánh.
+ Năng suất củ tươi: 33,4 – 35,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 34,8 – 40,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 26,1- 28,7%.
+ Năng suất bột : 9,5 -10,0 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 58 -65 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Thời gian giữ bột ngắn hơn KM94

Chọn giống sắn Việt Nam; Giống sắn KM140 giải VIFOTEC http://news.gov.vn/Home/VIFOTEC-2009-boasts-for-high-applicability/20101/6051.vgp

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km985.jpg

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM 98-5
Nguồn gốc: Giống sắn KM98-5 là con lai của tổ hợp KM 98-1 x Rayong 90 do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Công Khanh, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Nguyễn Hữu Hỷ, Phạm Văn Biên, Đào Huy Chiên, Reinhardt Howeler và Hernan Ceballos 2006, 2009). Giống được UBND tỉnh Tây Ninh và UBND tỉnh Đồng Nai công nhận kết quả đề tài ứng dụng KHKT cấp Tỉnh năm 2006. Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 2009 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 358 ngày 20 tháng 09 năm 2010 Giống KM98-5 được trồng tại các tỉnh phía Nam với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 25.000 ha, năm 2010 trồng trên 100.000 ha; hiện là giống phổ biến..

Hình ảnh này không có thuộc tính văn bản thay thế; tên tập tin là km98-5-02.jpg

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, hơi cong ở gốc, ngọn xanh, ít phân nhánh.
+ Giống sắn KM98-5 có cây cao hơn và dạng lá dài hơn so với KM419
+ Năng suất củ tươi: 34,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 39,2%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,5%.
+ Năng suất bột : 9,8 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 63 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Thời gian giữ bột tương đương KM94
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN KM98-1

Nguồn gốc: KM98-1 là con lai Rayong 1x Rayong 5 (= giống sắn KU 72 của Thái Lan hình trên, nhưng việc lựa chọn giống bố mẹ, lai tạo và chọn dòng thực hiện hoàn toàn tại Việt Nam) do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Hoàng Kim, Kazuo Kawano, Trần Hồng Uy, Trần Ngọc Quyền, Võ Văn Tuấn, Trần Công Khanh, 1999). Giống KM98-1 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận giống năm 1999 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên (MARD Certificate No. 3493/QD-BNN–KHKT, Sep 9, 1999). Giống KM98-1 được trồng phổ biến tại các tỉnh Tây Ninh, Đồng Nai, Nghệ An, Thừa Thiên Huế…. với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 18.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến..

Đặc điểm giống:
+ Thân xanh, tai lá rõ, lá xanh, cọng tím
+ Năng suất củ tươi: 32,5 – 40,0 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 35,8%.
+ Hàm lượng tinh bột: 27,2- 28,3 %.
+ Năng suất bột : 8,9 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 66 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Bảo quản giống ngắn hơn KM94

GIỐNG SẮN PHỔ BIẾN SM 937-26

Nguồn gốc:: Tên gốc SM937 của CIAT/Clombia được nhập nội bằng hạt từ CIAT/Thái Lan năm 1990. Giống do Viện Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp miền Nam tuyển chọn và giới thiệu (Trần Ngọc Quyền, Hoàng Kim, Võ Văn Tuấn, Kazuo Kawano 1995). Giống SM937-26 được Bộ Nông nghiệp và PTNT công nhận tạm thời năm 1995 cho các vùng Đông Nam Bộ, Duyên hải miền Trung và Tây Nguyên tại Quyết định số 98/NN-QLCN/QĐ ngày 25/11/1995.. Giống SM937-26 được trồng nhiều tại các tỉnh Bình Định, Quảng Ngãi với diện tích thu hoạch năm 2008 trên 15.000 ha, năm 2010 trồng trên 20.000 ha, hiện là giống phổ biến.

Đặc điểm giống:
+ Thân nâu đỏ, thẳng, không phân nhánh
+ Năng suất củ tươi: 32,5 tấn/ha.
+ Tỷ lệ chất khô: 37,9%.
+ Hàm lượng tinh bột: 28,9%.
+ Năng suất bột : 9,4 tấn/ha
+ Chỉ số thu hoạch: 61 %.
+ Thời gian thu hoạch: 8-10 tháng.
+ Nhiễm nhẹ bệnh cháy lá.
+ Vỏ củ dày và cứng hơn KM94

CHỌN GIỐNG SẮN KHÁNG CMD
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự

Bệnh virus khảm lá CMD từ ban đầu Tây Ninh (2017) lan rộng trên 15 tỉnh thành Việt Nam (2018) là thách thức của các nhà khoa học. “V/v sử dụng giống sắn KM419 trong sản xuất” đã được Bộ NNPTNT xác định tại công văn chỉ đạo của Bộ Nông nghiệp Phát triển Nông thôn, Cục Bảo vệ Thực vật số 1068/ BVTV ngày 3 tháng 5 năm 2019. Giống sắn KM419 có năng suất tinh bột cao nhất và diện tích trồng phổ biến nhất Việt Nam. Giống sắn KM419 chống chịu trung bình bệnh CMD và bệnh chổi rồng (CWBD), trong điều kiện áp lực 2 bệnh này ở Việt Nam hiện nay là rất cao. Sự cần thiết cấp bách lai tạo KM419 đưa thêm gen kháng bệnh của giống C39, KM440 (KM94 đột biến); KM397 vào giống sắn ưu tú này .

Giống sắn KM419 bìa trái thấp cây, tán gọn, cọng đỏ, chống chịu trung bình với bệnh CMD và CWBD , và các dòng sắn lai ít bệnh CMD và CWBD, so với HLS 11 giữa, cao cây, cọng xanh, nhiễm nặng bệnh CMD

Giải pháp chọn giống sắn Việt Nam tiếp nối hiệu quả là sử dụng giống sắn KM419 năng suất tinh bột cao sạch bệnh tiếp tục lai tạo với các giống sắn kháng bệnh CMD đã có. Bài viết CHỌN GIỐNG SẮN VIỆT NAM đúc kết tóm tắt thông tin đã có và định hướng cho sự nổ lực Trúc Mai, Hoang Long, BM Nguyễn, Nguyen Van Nam, Nhan Pham, Hung Nguyenviet, Hoàng Kim, Jonathan Newby … đang lai hữu tính và bồi dục nâng cao tính kháng cho các giống sắn KM419, KM440, KM397, tốt nhất hiện nay

y/bao-ton-va-phat-trien-san/

HÌNH ẢNH BẢO TỒN PHÁT TRIỂN SẮN

SẮN VIỆT NAM NGÀY NAY: BẢO TỒN VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Vietnamese cassava today:https://hoangkimlonghoanggia.blogspot.com/2021/11/cassava-news-136-vietnamese-cassava.html

TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

  1. Báo Nhân Dân 2009. Chữa bệnh ”chồi rồng’ trên cây sắn https://nhandan.vn/khoa-hoc/Chua-benh-choi-rong-tren-cay-san/
  2. Báo Nhân Dân 2020 Tìm ra giống sắn kháng bệnh khảm lá  https://nhandan.vn/chuyen-lam-an/tim-ra-giong-san-khang-benh-kham-la-625634/
  3. FAO. 2021. FAOSTAT (http://faostat.fao.org/) FAO (2013), Save and Grow: Cassava A guide to sustainable production intensification. FAO, ISBN 978-92-5-107641-5, 140 pp.
  4. Jonathan Newby, Cassava Regional Coordinator, Project Leader 2019. Establishing sustainable solutions to cassava diseases in mainland Southeast Asia. In: 10th Regional Workshop, held in Vientian, Lao, 11 -13 September 2019
  5. John Dixon, Reinhardt Howeler et al. 2021.Feed Food Fuel Competition and potential impacts on small-scale crop-livestock-energy farming systems, https://www.researchgate.net/publication/354492499_Feed_Food_Fuel_Competition_and_potential_impacts_on_small-scale_crop-livestock-energy_farming_systems
  6. Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai and Reinhardt Howeler (2019) Quản lý bền vững sắn châu Á. Thông tin trực tuyến về bảo tồn và phát triển sắn bền vững tại Việt Nam. Cập nhật các nghiên cứu mới châu Á và Việt Nam về chọn taọ giống sắn năng suất tinh bột cao, chống chịu bệnh hại chính. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quan-ly-ben-vung-san-chau-a/
  7. Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai and Reinhardt Howeler 2018, 2015 Cassava Conservation and Sustainable Development in Vietnam. In: R.H. Howeler (Ed.). A New Future for Cassava in Asia: Its Use as Food, Feed and Fuel to Benefit the Poor. Proc. 9th Regional Workshop, held in Quangxi, China, 2014. pp. 35-56. Update data Cassava in Viet Nam from 2011 to January 2016 for Researchgate  https://www.researchgate.net/publication/322160935_cassava_conservation_and_sustainable_development_in_vietnam.
  8. Hoang Kim, Tran Ngoc Ngoan, Nguyen Thi Truc Mai, Vo Van Quang, Nguyen Bach Mai, Nguyen Thi Le Dung, Nguyen Phuong, Hoang Long, Nguyen Minh Cuong, Dao Trong Tuan, Tran Cong Khanh, Nguyen Minh Hieu, Nguyen Van Bo, Nguyen Thi Cach, Nguyen Trong Hien, Le Huy Ham, H. Ceballos and M. Ishitani. 2016. New variety KM419.. Recogition Report of KM419 variety, the Ministry of Agriculture and Rural Development, National Council of Plant Varieties, Hanoi. Nov 16, 2014. 89p. In: Cassava in Viet Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ 
  9. Hoang Kim, Le Huy Ham, Manabu Ishitani, Hernan Ceballos, Nguyen Van Bo, Tran Ngoc Ngoan, Kazuo Kawano, Reinhardt Howeler, Rod Lefroy, Nguyen Phuong, Hoang Long, Nguyen Thi Le Dung, Tran Cong Khanh, Vo Van Quang, Dao Trong Tuan, Nguyen Minh Cuong, Nguyen Van Vu and Nguyen Van Dong 2013b. Vietnam cassava breeding overview: the broad perspective. Presentation to Kickoff Meeting of a Cooperative Research Project under the East Asia Joint Research Program (e-ASIA JRP) at AGI, Hanoi on Jan.8 and 9, 2013.
  10. Hoang Kim, Nguyen Van Bo, Rod Lefroy, Keith Fahrney, Hernan Ceballos, Nguyen
    Phuong, Tran Cong Khanh, Nguyen Trong Hien, Hoang Long, Vo Van Quang, Nguyen Thi Thien Phuong, Nguyen Thi Le Dung, Bui Huy Hop, Trinh Van My, Le Thi Yen, 2011. Cassava for biofuel in Vietnam. Paper presented at IFAD/ICRISAT Project Final Meeting “ Harnessing water –use efficient bio-energy crops for enhancing livelihood opportunities of smallholder farmers in Asia, Africa and Latin America” “Linking the poor to global markets: Pro-poor development of biofuel” supply chains Ho Chi Minh city, 14-15 April 2011.
  11. Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Kim, Hoàng Long và đồng sự Thông tin trực tuyến về Bảo tồn và phát triển sắn, đúc kết sản phẩm khoa học công nghệ nổi bật về sắn của nhóm nghiên cứu https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-phat-trien-san/
  12. Nguyễn Thị Trúc Mai 2017. Nghiên cứu tuyển chọn giống sắn năng suất tinh bột cao và kỹ thuật thâm canh tại tỉnh Phú Yên, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm, Đại học Huế.161 trang. (Nguyen Thi Truc Mai 2017, “Study on the selection of high yielding cassava varieties and intensive cultivation techniques in Phu Yen province”. Ph.D Thesis Major field:  Crop Science. Code: 62 62 01 10. Supervisors:  Assoc. Prof. Dr. Nguyen Minh Hieu and Dr. Hoang Kim; Training organization: University of Agriculture and Forestry, Hue University; Period: 2014 – 2017)
  13. Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Kim, Nguyễn Trọng Tùng, 2017, Kết quả nghiên cứu biện pháp kỹ thuật thâm canh rải vụ sắn tại tỉnh Phú Yên, Tạp chí Nông nghiệp và PTNT, trang 50 – 56.
  14. Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Kim, Nguyễn Trọng Tùng, 2016, Kết quả khảo nghiệm và tuyển chọn giống sắn KM419 đạt năng suất tinh bột cao cho tỉnh Phú Yên, Tạp chí Khoa học Đại học Huế – Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, tập 124, trang 131 – 142.
  15. Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Minh Hiếu, Hoàng Kim 2014. Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật canh tác nhằm nâng cao năng suất cây sắn tại huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên. Tạp chí Nông nghiệp & Phát triển Nông thôn số 3+4/2014, trang 76-84   
  16. Nguyễn Bạch Mai (2018), Nghiên cứu biện pháp kỹ thuật rải vụ tại tỉnh Đắk Lắk, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Trường Đại học Tây Nguyên,175 trang.( Nguyen Bach Mai 2018, “Research on cultural techniques to scatter harvest season for cassava in Dak Lak”. Ph. D Thesis Major field:  Crop Science. Code: 62 62 01 10. Supervisors:  Dr. Hoang Kim and Assoc. Prof Trinh Khac Tu; Training organization: Tay Nguyen University; Period: 2015 – 2018)
  17. Hoàng Long, Hoàng Kim, và đồng sự. 2021. Food Crops Ngọc Phương Nam Thông tin trực tuyến về Cây Lương thực Việt Nam bảo tồn và phát triển. Đúc kết sản phẩm khoa học công nghệ nổi bật của nhóm nghiên cứu về lúa siêu xanh sắn khoai ngô đậu hệ canh tác. https://hoangkimlong.wordpress.com/category/food-crops-ngoc-phuong-nam/
  18. Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Kim, Ishitani Manabu  and Reinhardt Howeler, 2019. Paper presented at ChangHae Group and VNCP “Working together 6Ms 10T and Commercial Cassava Area”, Vietnam Korea Green Road, 16 July 2019
  19. Hoang Long, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Hoang Kim, Ishitani Manabu  and Reinhardt Howeler, 2014. Cassava in Vietnam: production and research, an overview. Paper presented at Asia Cassava Research Workshop, hosted by ILCMB- CIAT-VAAS/ AGI, in Hanoi, Vietnam. Nov 3, 2014. 15p.
  20. Howeler, R.H. and T.M. Aye. Người dịch: Hoàng Kim, Hoàng Long, Nguyễn Thị Trúc Mai, Nguyễn Bạch Mai.2015.  Quản lý bền vững sắn châu Á: Từ nghiên cứu đến thực hành. (Sustainable Management of Cassava in Asia − From Research to Practice. CIAT, Cali, Colombia. 147 p).Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, Nhà Xuất bản Thông tấn, Hà Nội, Việt Nam. 148 p. In: Quản lý bền vững sắn châu Á  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/quan-ly-ben-vung-san-chau-a/
  21. Howerler R. H, (2014), Sustainable soil and crop management of cassava in Asia. A Reference Manual, 280 pages. In: Sắn Việt Nam và Howeler https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-howeler/  
  22. Kawano K (1995) “Green revolution” and cassava breeding, p.335-367. In: R. H. Howeler (ed.), Cassava Breeding Agronomy Researchand Technology Transfer in Asia. CIAT, Bangkok, Thailand. In: Sắn Việt Nam và Kawano https://hoangkimlong.wordpress.com/category/san-viet-nam-va-kawano/
  23. Le Huy Ham, Hoang Kim, Nguyen Thi Truc Mai, Nguyen Bach Mai, Reinhardt Howeler (2016), The cassava revolution in Vietnam. In: GXAS- GSCRI-GCRI-CAS- CATAS- GCP 21-III Third Scientific Conference of the Global Cassava Partnership for the 21 Century- ISTRC 17 th Symposium of the International Society for Tropical Root Crops: “Adding value to Root and Tuber Crops”  Proc. WORLD CONGRESS on Root and Tuber Crops, held in NanNinh, Quangxi, China, Jan. 18-22, 2016.  In: Cách mạng sắn Việt Nam  https://hoangkimlong.wordpress.com/category/cach-mang-san-viet-nam/
  24. Nguyen Van Bo, Hoang Kim, Le Quoc Doanh, Tran Ngoc Ngoan, Bui Chi Buu, R. Lefroy, Le Huy Ham, Mai Thanh Phung and Tran Vien Thong. 2013. Vietnam cassava achievements and lessons learnt. In: The 11th Extension Forum @ Agriculture, 2013. Subject: “Solutions for sustainable development of cassava”, held by Center for National Agricultural Extension in coordination with the Department of Agriculture and Rural Development, held in Tay Ninh province, Aug 26, 2013. In: Cassava in Viet Nam http://cassavaviet.blogspot.com/ 
  25. Trần Công Khanh (2012), Đánh giá khả năng thích nghi của một số giống sắn cho vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, Luận án Tiến sỹ Nông nghiệp, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, 125 trang.
  26. RTB Newsletter 2016. Assessment reveals that most cassava grown in Vietnam has a CIAT pedigree  http://www.rtb.cgiar.org/2016-annual-report/assessment-reveals-that-most-cassava-grown-in-vietnam-has-a-ciat-pedigree/
  27. VGPNEWS 2010. VIFOTEC 2009 Boasts for high applicability. Chính phủ Việt Nam 2010. Lễ trao giải tại Nhà hát lớn Hà Nội ngày 19.1. 2010 Bản tin tiếng Anh và hình ảnh liên quan đến Giống sắn KM140, giải pháp khoa học công nghệ đoạt giải Nhất, Hội thi sáng tạo kỹ thuật toàn quốc VIFOTEC. http://news.gov.vn/Home/VIFOTEC-2009-boasts-for-high applicability/20101/ 6051.vgp

Chọn giống sắn kháng CMD
Chọn giống sắn kháng CWBD

SanVietnam

Chọn giống sắn Việt Nam
Sắn Việt Nam và Howeler
Sắn Việt Nam và Kawano

PHO TƯỢNG NGỌC QUAN ÂM
Hoàng Kim

Khởi nghiệp tại đường sáng gia đình và cộng đồng.Cố hương và ly hương là bài học lớn. “Đi đâu cũng không bằng Tổ quốc mình. Nói gì, làm gì cũng không bằng dạy, học và làm cho đồng bào đất nước mình. Đi khắp quê người để hiểu đất quê hương. Mục đích sau cùng của dạy và học là thấu suốt bản chất sự vật, có lời giải đúng và làm được việc. Dạy và học thực tiễn trên chính Tổ quốc mình”. Đêm trắng và bình minh Hoàng Kim lời tâm đắc Pho tượng Ngọc Quan Âm chuyện ngậm ngãi tìm trầm là chuyện đời tôi lắng nghe được từ cuộc sống về phẩm hạnh người mẹ cao quý ngời tâm đức rất yêu chồng thương con và câu chuyện người cha, người chồng, người thầy trung chính, tận tâm, luôn hi sinh quên mình dành sự hoàn hảo nhất cho người mình yêu thương. Chuyện cổ tích người lớn đọc lại và suy ngẫm Mời bạn đón đọc bài mới tại chuỗi thông tin này Chuyện ngậm ngãi tìm trầm mấy ai hiểu thấu Pho tượng Ngọc Quan Âm https://hoangkimlong.wordpress.com/category/chuyen-ngam-ngai-tim-tram/

VƯỜN GIỐNG SẮN ĐỒNG XUÂN
Nguyễn Thị Trúc Mai, Hoàng Long, Nguyễn Nữ Quỳnh Đoan, Hoàng Kim

Vườn giống sắn Đồng Xuân là nơi bảo tồn nguồn gen giống sắn gốc và lai tạo các tinh dòng sắn lai ưu tú (elite clones), nơi khảo sát đánh giá tập đoàn các giống sắn tuyển chọn. Mục đích nhằm thu thập bảo tồn và phát triển thành tựu tốt nhất về giống sắn có năng suất tinh bột cao, kháng được một số sâu bệnh hại chính (CBD, CWBD, …) phù với điều kiện sản xuất sắn tại tỉnh Phú Yên. Dưới đây là một số hình ảnh và thông tin chọn lọc

ĐƯỜNG XUÂN ĐỜI QUÊN TUỔI
Hoàng Kim


Hoàng Thành trông năm tháng
Hòa Thịnh thương người hiền
Đồng Cam vui ngày mới
Đất Phú Trời Bình Yên

TỈNH THỨC CÙNG THÁNG NĂM
Hoàng Tố Nguyên, Hoàng Long, Hoàng Kim
#htn, #vietnamxahoihoc, #htn365, #ana, #dayvahoc,
#vietnamhoc,#cnm365#cltvn

PHÚ YÊN NÔI LÚA SẮN
Hoàng Kim


Thông tin Sở Khoa học và Công nghệ Phú Yên, Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Sáng ngày 31/12/2021, tại TP Tuy Hòa, UBND tỉnh Phú Yên đã phối hợp với Sở KH&CN tổ chức hội nghị tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ Phú Yên giai đoạn 2016-2020; Định hướng phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021-2025. Hội nghị được tổ chức trực tiếp tại TP Tuy Hòa và kết nối trực tuyến đến các thị xã, huyện trong địa phương cùng đại diện Bộ KH&CN. Chủ trì Hội nghị là đồng chí Đào Mỹ, Phó Chủ Tịch UBND tỉnh Phú Yên và đồng chí Dương Bình Phú, Giám đốc Sở KH&CN, tham dự Hội nghị còn có ông Thân Ngọc Hoàng, Phó Vụ trưởng Vụ Phát triển Khoa học và Công nghệ địa phương và đại diện lãnh đạo các Sở, Ban, Ngành, đơn vị, doanh nghiệp trong tỉnh; xem tiếp https://khcnpy.gov.vn/hoi-nghi-tong-ket-hoat-dong-khoa-hoc-va-cong-nghe-phu-yen-giai-doan-2016-2020-dinh-huong-phat-trien-ung-dung-khoa-hoc-cong-nghe-va-doi-moi-sang-tao-giai-doan-2021-2025/

Phú Yên nôi lúa sắn https://youtu.be/CKdEr4aS2NA là lời biết ơn chân thành bởi Hoàng Kim và đs. 2021. Hoàng Kim tham dự hội nghị theo giấy mời của UBND Tỉnh Phú Yên. Chúng tôi lưu trích đoạn lúa sắn thuộc lĩnh vực kỹ thuật công nghệ trong phim của Đài Phát thanh và Truyền hình Phú Yên với Sở Khoa học và Công nghệ phối hợp thực hiện tháng 12 năm 2021. Phim chiếu tại Hội nghị tổng kết hoạt động khoa học công nghệ giai đoạn 2016-2020, định hướng phát triển ứng dụng KHCN & ĐMST giai đoạn 2021-2025 https://youtu.be/CKdEr4aS2NA


Trong khi đang họp, tôi nhớ lại ký ức không quên tin nhắn “Dân vùng sắn chạy lũ” ngày 14 11 năm 2021 https://youtu.be/6nbaafj1clM; với giống sắn KM397

Nhớ câu chuyện “Mưa lũ gây cô lập hoàn toàn huyện Đồng Xuân” ngày 11 tháng 11, 2020 https://youtu.be/SEFBlK88b3k

Mỗi tiến bộ khoa học công nghệ ứng dụng nơi vùng sâu vùng xa nhiều khó khăn, là biết bao tâm huyết và sự cố gắng. “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/bao-ton-va-phat-trien-san/

Phú Yên giống sắn KM419 https://youtu.be/9RjedC3UEDs Lời biết ơn chân thành Một niềm tin thắp lửa Một niềm vui ngày mới Phú Yên nôi lúa sắn https://hoangkimlong.wordpress.com/category/phu-yen-noi-lua-san/

Lời biết ơn chân thành https://hoangkimlong.wordpress.com/category/loi-biet-on-chan-thanh/
TS Nguyễn Trọng Tùng, TS Hoàng Kim và đồng sự bày tỏ lời biết ơn đất và người Phú Yên


Một năm đáng tự hào của ngành nông nghiệp

Nhìn lại năm 2021, Thứ trưởng Bộ NN-PTNT Lê Quốc Doanh khẳng định ngành nông nghiệp đạt mức tăng trưởng ngoạn mục với những con số bất ngờ. https://nongnghiep.vn/mot-nam-dang-tu-hao-cua-nganh-nong-nghiep-d312123.html

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com/
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn; Kim on Facebook; Kim on Twitter

Kuma DCj và Hoàng Thảo


KUMA DCJ VÀ HOÀNG THẢO
Hoàng Gia
mừng Hạnh Phúc

Nhớ tháng bảy mưa ngâu; Nhớ vầng trăng ngọn lửa; Hoàng Ngọc Dộ khát vọng; Kuma D Cj và Hoàng Thảo; Bài ca nhịp thời gian: Hạnh phúc https://youtu.be/_Bs4XcVufqY Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July/ Miss the moon, the fire / Hoang Ngoc Do aspiration / Kuma D Cj and Hoang Thao/ Song of Time: Happiness

Kuma D Cj and Hoang Thao Kuma DCj là người Sri Lanka (đất nước Tích Lan),cha mẹ là giáo viên, nhà gần dấu chân Phật (hòn đá khiêm nhường), Kuma có hai chị gái, Kuma D Cj and Hoang Thao thương nhau và kết hôn ở Nhật khi Kuma học IT và Hoàng Thảo làm điều dưỡng viên tại Nhật từ nhiều năm trước.

DẤU CHÂN BỤT KHIÊM NHƯỜNG
Một gia đình yêu thương
Nhớ Ông Bà Cậu Mợ
Nhớ tháng Bảy mưa Ngâu.

Sri Lanka dấu chân Phật, hòn đá khiêm nhường (ảnh), một trong tám dấu tích di sản thế giới ở đất nước Tích Lan Sri Lanka, nơi một hậu duệ Hoàng Gia Mạc tộc chọn về làm dâu ngày nay. “Núi không cần cao, có tiên phật người lành là linh điạ. Nước không cần sâu,có suối nguồn thắng tích hẳn an nhiên”. .

NHỚ THÁNG BẢY MƯA NGÂU
Hoàng Kim

Tháng Bảy mưa Ngâu
Trời thương chúng mình
Mưa giăng
Ướt đầm vạt áo
Bảy sắc cầu vồng
Lung linh huyền ảo
Mẹ thương con
Đưa em về cùng anh.

Chuyến xe tốc hành
Chạy giữa trăm năm
Chở đầy kỷ niệm
Chở đầy ắp tình em
Từ nơi chân trời
Góc biển

Chàng Ngưu hóa mình vào dân ca
Con ngựa, con trâu
Suốt đời siêng năng làm lụng.
Thương con gà luôn dậy sớm
Biết ơn con chó thức đêm trường.

Em ơi !
Những câu thơ ông bà gửi lại
Đã theo chúng mình đi suốt thời gian.

Tháng Bảy mưa Ngâu
Đầy trời mưa giăng giăng
Thương nàng Chức Nữ
Em là tiên đời thường
Đầy đặn yêu thương.

DSC02002

Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July
Hoang Kim

Rainy July
God loves us
Rain falls
Wet dress shirt
Seven colors of the rainbow
Shimmering
Mother loves her child
Take me home with you.

Express ride
Running for a hundred years
Filled with memories
Filled with love
From the horizon
Sea corner

The Taurus man transforms himself into folk songs
Horse, buffalo
Hard work all his life.
Love the chicken that always gets up early
Grateful for the dog that stayed up all night.


Hey ’em ơi’ ‘anh ơi’ !
Poems sent by grandparents
Followed us the whole time.

“Mưa Ngâu” Rainy July
It’s full of rain “Ban Mai”

#cnm365 #cltvn July 7
I love you, Chuc Nu
I’m a normal fairy
Full of love.


see more …
Nhớ tháng bảy mưa ngâu;
Nhớ vầng trăng ngọn lửa;
Hoàng Ngọc Dộ khát vọng;
Kuma D Cj và Hoàng Thảo;
Bài ca nhịp thời gian: Hạnh phúc
https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July/
Miss the moon, the fire /
Hoang Ngoc Do aspiration /
Kuma D Cj and Hoang Thao/
Song of Time: Happiness

DSC02003

Tháng Bảy mưa Ngâu
Nhớ thương ai góc biển chân trời
Những cuộc chia ly
Đong đầy nỗi nhớ …

Chiêm bao mơ về chuyện cũ
Khói sương mờ ký ức thời gian
Chốn nào chúng mình hò hẹn
Nơi em cùng anh xao xuyến yêu thương

Ngắm mưa Ngâu tháng Bảy
Mưa, mưa hoài, mưa mãi
Mưa trong lòng người
Nên mưa rất lâu…

Mưa rơi như dòng lệ trắng
Đất trời thương nối một nhịp cầu.

Em ơi
Lời tình tự của nghìn năm dân tộc.
Như sắc cầu vồng
Nối hai miền xa cách
Để xa nên gần
Vời vợi nhớ thương.

“Nhớ tháng Bảy mưa Ngâu” là bài thơ tình của Hoàng Kim viết tặng cho những đôi lứa yêu thương cách xa nhau và khát khao ngày gặp mặt. Bài thơ là chuyện tình cảm động Ngưu Lang Chức Nữ có trong dân gian Việt Nam. Truyện về nàng tiên Chức Nữ xinh đẹp, phúc hậu, nết na yêu thương chàng trai Ngưu Lang khôi ngô, hiền lành, chăm chỉ. Họ yêu nhau say đắm, bất chấp sự xa xôi nghìn trùng của cõi Trời và cõi Người. Cảm động trước tình yêu son sắt thủy chung của hai người, mỗi năm Trời Phật đã nối duyên cho họ găp nhau một lần vào tiết tháng Bảy mưa ngâu trước rằm Trung Thu tháng Tám. Đó là dịp Trời gom góp của nhà Trời và sự cần mẫn suốt năm của Ngưu Lang Chức Nữ để làm thành chiếc cầu vồng bảy màu nối liền đôi bờ thăm thẳm cho họ được gặp nhau. Muôn vạn con quạ, con cò, con vạc, bồ nông, ngỗng trời đã hợp lực ken kín cầu Ô Thước để giúp Ngưu Lang và Chức Nữ gặp nhau. Những giọt nước mắt mừng tủi của hai người và sự cảm động của trời đất, chim muông đã hóa thành mưa ngâu.

THẤT TỊCH CHUYỆN HOÀNG GIA
Hoàng Kim

Nhớ tháng bảy mưa ngâu
Chuyện hiền vui trăm năm
Một gia đình yêu thương
Chim Phượng về làm tổ

(*) Kuma DCj và Hoàng Thảo tại ngày Lễ Thất tịch năm 2022 hợp ngày 4/8 Dương lịch. Kuma DCj là người Sri Lanka (đất nước Tích Lan), cha mẹ là giáo viên, nhà gần dấu chân Phật (hòn đá khiêm nhường), Kuma có hai chị gái, Kuma D Cj and Hoang Thao thương nhau và kết hôn ở Nhật khi Kuma học IT và Hoàng Thảo xuất khẩu lao động Việt Nam làm điều dưỡng viên tại Nhật từ nhiều năm trước. Chuyện đời là cảm động. Sri Lanka dấu chân Phật, hòn đá khiêm nhường (ảnh), một trong tám dấu tích di sản thế giới ở đất nước Tích Lan Sri Lanka, nơi một hậu duệ Hoàng Gia Mạc tộc chọn về làm dâu ngày nay. “Núi không cần cao, có tiên phật người lành là linh điạ. Nước không cần sâu,có suối nguồn thắng tích hẳn an nhiên”. xem tiếp https://hoangkimlong.wordpress.com/category/kuma-dcj-va-hoang-thao/

Thất tịch là ngày gì? Nguồn gốc và ý nghĩa ngày lễ Thất tịch
Hoàng Bao

Ngày 7/7 âm lịch là ngày lễ Thất tịch, còn gọi là ngày “ông Ngâu bà Ngâu” hay ngày Ngưu Lang Chức Nữ gặp nhau. Ngày Lễ Thất tịch năm 2022 hợp ngày 4/8 Dương lịch.

Nguồn gốc ngày lễ Thất tịch

Lễ Thất tịch theo văn hóa phương Đông được xem là ngày lễ tình yêu hay đôi khi còn được người phương Tây gọi là ngày Valentine Đông Á và được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch hằng năm. Ngày lễ này được dựa trên câu truyện cổ tích từ Trung Quốc mang tên Ngưu Lang Chức Nữ.

Tương truyền rằng, Ngưu Lang là một anh chàng chăn trâu tuy nghèo nhưng rất chăm chỉ, thiện lương đã dành được tình cảm của nàng tiên dệt vải Chức Nữ, con gái út của Vương Mẫu Nương Nương, chuyên dệt các đám mây ngũ sắc trên bầu trời.

Hai người đã kết duyên vợ chồng, trải qua những năm tháng hạnh phúc bên nhau và có được 2 người con, một trai một gái.

Nhưng một ngày kia, Chức Nữ phải trở về thiên đình theo lệnh của Ngọc Đế. Ngưu Lang đau khổ đuổi theo, nhưng bị chặn lại bởi con sông Thiên Hà, ranh giới giữa hai cõi phàm tiên. Thế rồi Ngưu Lang nhất định ở đó chờ đợi, mãi không chịu rời đi.

Từ đó, bên cạnh sông Thiên Hà có thêm một vì sao, mọi người gọi đó là sao Ngưu Lang.

Vương Mẫu vì cảm thương tấm chân tình của Ngưu Lang, đã đồng ý cho họ mỗi năm vào ngày Thất tịch (7/7 âm lịch) được gặp nhau một lần.

Ngày Thất tịch nên làm gì

Có nhiều hình thức tổ chức lễ hội trong dịp Thất tịch tại Trung Quốc. Tuy nhiên, phong tục phổ biến nhất vào dịp này là: Vào đêm mồng 7/7 âm lịch, những người phụ nữ cầu nguyện để có được đôi bàn tay khéo léo. Trong ngày này, các cô gái trẻ trưng bày các vật dụng nghệ thuật tự tạo để cầu mong lấy được ông chồng tốt.

Ngày lễ Thất tịch tại Nhật Bản được gọi là lễ Tanabata. Vào ngày này, người Nhật sẽ viết mong ước của mình vào những mảnh giấy đầy màu sắc Tanzaku rồi treo lên cành trúc trước cửa nhà để cầu mong may mắn, vụ mùa bội thu và sự thịnh vượng. Các bạn trẻ cũng tới các đền thờ trong ngày lễ Tanabata để cầu nguyện, mong tìm được ý trung nhân.

Ngày lễ Thất tịch ở Việt Nam

Ngày lễ Thất tịch đã tồn tại trong văn hóa người Việt Nam từ khá lâu. Trong ngày này nhiều người đã kiêng kỵ cưới hỏi vì sợ gặp phải những điều không may mắn như Ngưu Lang và Chức Nữ.

Thay vào đó người ta thường đi chùa cầu duyên để cầu mong những điều tốt đẹp, sự bình an và gặp thuận lợi trong con đường tình duyên.

Ngày lễ Thất tịch thường rơi vào mùa mưa, điều này gây bất lợi cho việc xây nhà hay trùng tu lại nhà cửa. Vì vậy, mọi người thường tránh thi công vào ngày này để tránh những xui xẻo không đáng có. Nhiều người sợ nếu khởi công xây dựng nhà cửa vào ngày này thì gia đình sẽ ly tán.

Ngoài ra, giới trẻ cũng thường truyền miệng nhau rằng ăn chè đậu đỏ để hi vọng tình yêu đôi lứa thêm bền vững hay người độc thân tìm được tình duyên cho bản thân.

Một số đôi nam nữ còn tặng quà cho nhau, gửi những lời chúc, hoặc vợ chồng trao nhau những món đồ đối phương thích để mong tương lai an lành.

NHỚ VẦNG TRĂNG NGỌN LỬA
Hoàng Ngọc Dộ Hoàng Kim

Cảnh mãi theo người được đâu em
Hết khổ hết cay hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen

Trăng rằm thương nhớ Anh
Trăng rằm sen Tây Hồ
Trăng rằm đêm Thanh Minh
Trăng rằm đêm Trung Thu
Trăng rằm vui chơi giăng

Trăng xưa cùng anh cuốc đất
Trăng nay mình em làm thơ
Không gian một vầng trăng tỏ
Trăng ơi rọi đến bao giờ

Đèn giời vầng trăng soi
Mẹ Cha Anh vời vợi
Lửa hiếu trung cháy mãi
Ngọn đèn trong đêm thiêng

Em đã đọc nhiều gương sáng danh nhân
Hãy biết nhục biết hèn mà lập chí
Thắp đèn lên đi em ngọn đèn dầu bền bỉ
Sáng giữa đời lấp lánh một niềm tin

LỜI ANH DẶN
Hoàng Ngọc Dộ

‘Không vì danh lợi đua chen
Thù nhà nợ nước quyết rèn bản thân’


‘Dặn con cháu khiêm nhu cần kiệm’

Nhá củ lòng anh nhớ các em
Đang cơn lửa tắt khó thắp đèn
Cảnh cũ chưa lìa đeo cảnh mới
Vơi ăn, vơi ngủ, với vơi tiền

Cảnh mãi đeo người được đâu em
Hết khổ, hết cay, hết vận hèn
Nghiệp sáng đèn giời đà chỉ rõ
Rồi đây cay đắng chẳng buồn chen

Nhớ vầng trăng cổ tích
Hoàng Ngọc Dộ

Bóng đêm trùm kín cả không trung
Lấp lánh phương Đông sáng một vừng
Mây bủa mây giăng còn chẳng ngại
Ngắm nhìn trần thế bạn văn chương.

see more …
Nhớ tháng bảy mưa ngâu;
Nhớ vầng trăng ngọn lửa;
Hoàng Ngọc Dộ khát vọng;
Kuma D Cj và Hoàng Thảo;
Bài ca nhịp thời gian: Hạnh phúc
https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

Remembering ‘mưa ngâu’ rainy July/
Miss the moon, the fire /
Hoang Ngoc Do aspiration /
Kuma D Cj and Hoang Thao/
Song of Time: Happiness

Bài ca nhịp thời gian Run away with me https://youtu.be/_Bs4XcVufqY

Bài viết mới trên CNM365 Tình yêu cuộc sống
DẠY VÀ HỌC https://hoangkimvn.wordpress.com
CNM365, ngày mới nhất bấm vào đây   cập nhật mỗi ngày

Video yêu thích

Mùa xuân đầu tiên (Văn Cao) -Thanh Thúy
Quê Hương saxophone hay nhất của Trần Mạnh Tuấn
Ban Mai; Chỉ tình yêu ở lại
KimYouTube

Trở về trang chính
Hoàng Kim Long, Ngọc Phương Nam, Thung dung, Dạy và Học, Việt Nam Học, Cây Lương thực Việt Nam, CNM365 Tình yêu Cuộc sống, Kim on LinkedIn, Kim on Facebook, Kim on Twitter